Long Vân Khánh Hội
Du khách đến Nha Trang bằng đường hàng không, hoặc đường bộ, tàu hoả, không nhận thấy tất cả vẻ đẹp của Nha Trang bằng tàu thủy.
Ngoài khơi, những hòn đảo xinh xắn, hàng ngàn mỏm đá nhấp nhô trên mặt nước, làm cho du khách nhớ đến cảnh Hạ Long.
Tàu chầm chậm len lỏi giữa mỹ cảnh thiên nhiên, và trước mặt du khách hiện ra một bãi biển cát mịn nhìn mút mắt trải dài từ Hòn Chồng đến Cầu Đá. Tháp Chàm PONAGAR xây từ thết kỷ 12 thêm một nét độc đáo không nơi nào có. Cất trên một hòn cẩm thạch cao 23 thước, nhìn xuống dòng sông Nha Trang.
Sau Nội Địa, rừng núi thẩng tắp đến chân trời. Vầng thái dương chiếu quanh năm, nhưng khí hậu rất ôn hoà, và trên không trung bầu trời xanh thẳm hiến cho du khách một nơi giải lao tuyệt diệu.
Cách đây trên một thế kỷ, ngày 29/07/1891, một thanh niên Pháp 28 tuổi, mảnh khảnh, rụt rè mà cương quyết, y sĩ của tàu hàng hải thương thuyền, đặt chân lên bờ biển Nha Trang và bị chinh phục bởi vẻ đẹp của đất nước này. Thanh niên ấy chính là bác sĩ Yersin, nhà bác học tương lai, về sau chiến thắng bịnh dịch hạch, lừng danh thế giới, có lòng nhân ái, suốt đời gắn bó với đất nước dân tộc VIỆT NAM và được tôn sùng như thần thánh.
Yersin phát nhận Nha Trang chẳng khác nào rồng gặp mây : "Long Vân Khánh Hội".
Thời niên thiếu
Alexandre Yersin sanh ngày 22 tháng 9 năm 1863 tại hạt Lavaux tổng Vaux tỉnh Morges, tây nam nước Thụy Sĩ. Cùng năm ấy, Henri Dunant người Thụy Sĩ phát động phong trào hồng thập tự quốc tế. Cha là Jean Yersin giáo sư Khoa học Tự nhiên tại trường trung học ở Morges nổi tiếng với những công trình nghiên cứu về côn trùng học, mất năm ba mươi tám tuổi, ba tuần trước khi Alexandre Yersin người con thứ ba của ông ra chào đời.
Ngoại tổ của A. Yersin là gốc người Pháp sang định cư ở Thụy Sĩ, để lánh nạn kỳ thị tôn giáo Tin-Lành, dưới thời vua Louis 14 khi chánh quyền Pháp hủy bỏ sắc lệnh thành Nantes.
Thời niên thiếu A. Yersin học tại Lausanne, đỗ tú tài năm 1882. Năm 1883 vào học ngành y trong viện hàn lâm cũ của Lausanne. Sau đó, Yersin thi vào trường Đại học ở MARBURG, nước Đức, và một thời gian sau sang Paris. Tại đây A. Yersin được giáo sư Cornil chuyên ngành bệnh thể, nhận vào giúp việc Cornil trong cơ quan của ông ở Hôtel Dieu.
Một buổi sáng thánh 4 năm 1886, tại bịnh viện Hôtel Dieu, trong buổi thực tập, A. Yersin được giới thiệu với giáo sư Émile Roux. Chẳng mấy chốc giáo sư Émile Roux đã nhận thấy tính chuyên cần, ham học, ham làm của A. Yersin. Bấy giờ Émile Roux làm phụ tá cho nhà bác học Louis Pasteur tại phòng thí nghiệm của trường cao đẳng sư phạm ở đường Ulm quận 5 Paris. Ngoài giờ làm việc tại Hôtel Dieu, A. Yersin được phép đến phòng thí nghiệm đường Ulm, thực tập. Một mặt, A Yersin lo làm luận án tiến sĩ y khoa "Bịnh lao thực nghiệm", một mặt cộng tác với Émile Roux, nghiên cứu vi khuẩn bịnh "bạch hầu".
A. Yersin cũng được nhà bác học Louis Pasteur lưu ý. Ông bà Pasteur mời Yersin cùng Émile Roux dự buổi ăn tối tân niên 1888.
Trong thư gởi cho mẹ, A. Yersin kể: Đúng 8 giờ, con và ông Roux rời phòng thí nghiệm để lên phòng của ngài Pasteur, chỉ cần băng qua sân của trường. Bữa ăn tối rất ngon và thoải mái. Sau đó, các vị hút thuốc (dĩ nhiên là không có con). Kế đó, mọi người sang phòng khách. Ngài Pasteur đề cập đến công trình nghiên cứu rất quan trọng do ông Roux vừa thực hiện, và đăng trong số chót của tập biên niên viện Pasteur. Đúng như thế, công trình nghiên cứu này chứng minh có thể chủng ngừa một số bịnh nhiễm trùng nặng, không phải bằng những vi khuẩn gây bịnh, vì dù đã bị làm yếu đi, chúng vẫn còn nguy hiểm, mà dùng độc tố những vi khuẩn tiết ra, nghiã là với một hoá chất hoàn toàn mất sinh
lực. Ngài Pasteur cũng có nói về con, là sau khi tốt nghiệp bác sĩ, con sẽ là thành viên tích cực cuả viện Pasteur.
Năm 1888, A. Yersin vừa đúng 27 tuổi trình luận án tiến sĩ y khoa "Bệnh lao thực nghiệm", và được nhận làm phụ tá cho giáo sư Émile Roux, trong viện Pasteur vừa khai trương năm ấy tại Paris.
Năm 1889, A. Yersin được chấp nhận vào quốc tịch Pháp. Năm ấy, trùng với lễ bách niên của cuộc "Cách mạng Pháp" và khánh thành tháp EIFFEL.
Dưới sự hướng dẫn của Émile Roux, A. Yersin tìm ra độc tố của vi khuẩn bạch hầu.
Từ bỏ đường công danh để theo khuynh hướng thiên nhiên
Một tương lai rực rỡ đang chờ Yersin ở viện Pasteur, nhưng là người thích mạo hiểm thích phiêu lưu, A. Yersin không thể nào mãi mãi tự giam mình trong phòng thí nghiệm. A. Yersin muốn vẫy vùng cho thỏa chí, thường nói với các bạn: Tôi luôn luôn mơ ước khám phá nơi nầy nơi nọ và thám hiểm; Khi ta còn trẻ không có gì là không thể được. Người hiểu A. Yersin hơn ai hết có lẽ là Noel BERNARD nguyên giám đốc viện Pasteur Saigon. Theo ý ông: A. Yersin muốn thoát ly khỏi những mối lo âu gia đình, những tham vọng về danh lợi, và địa vị không bao giờ thoả mãn, muốn ra khỏi lề lối ràng buộc.
Thế rồi tháng 9.1890, A. Yersin đáp tàu sang Viễn Đông giữa sự bàng hoàng của các thày các bạn. Ông sang Viễn Đông không phải với tư cách một sứ giả khoa học, mà chỉ với tư cách một bác sĩ làm công hợp đồng cho hãng "Vận Tải Hàng Hải". Pasteur đã viết trong nhật ký của mình ngày 23.10.1892: "Bỗng nhiên ý định cuồng nhiệt của Yersin không ai ngăn nổi. Không làm sao cầm giữ ông lại bên cạnh chúng tôi nữa."
Đất lành chim đậu
Yersin làm việc trên chiếc tàu chạy dọc bờ biển Việt Nam nối liền Sài Gòn, Nha Trang, Hải Phòng. Lần đầu tiên, mặc dầu thấy Nha Trang từ đằng xa, Yersib đã bị chinh phục. Ông ghi trong sổ nhật ký : Ngày 6.5.1891: "Rời Sài Gòn phải mất 28 tiếng đồng hồ mới đến Nha Trang, tàu phải neo cách bờ một dậm, và chỉ đậu lại một giờ, vì thế không lên bờ được. Thật đáng tiếc vì vùng nầy có nhiều núi non và phong cảnh rất ngoạn mục. Trong rừng đầy cọp…"
Lần sau, Yersin xin phép lên bờ với chiếc thuyền độc mộc mà ông đem theo. Đó là ngày 29.7.1891. Phong cảnh hữu tình, bờ biển, cửa sông, các đảo ngoài khơi, màu sắc rực rỡ của một vùng quê nhiệt đới, khí hậu ôn hoà, chinh phục Yersin. Ông quyết định chọn Nha Trang làm quê hương thứ ba, làm việc và sống chết ở đây.
Năm 1896, A. Yersin viết thư mời Émile Roux đến làm việc chung với ông. Ông tán dương vẻ đẹp quyến rũ của đất nước Việt Nam, và sự niềm nở của dân chúng ở đó.
Nhà thám hiểm
Sau khi tìm được mảnh đất lành, A. Yersin xin thôi việc ở "Vận Tải Hàng Hải". Bác sĩ A. Calmette cũng là môn đệ của Pasteur, đến Sài Gòn lập chi nhánh viện Pasteur, mời ông cộng tác, ông từ chối vì muốn đi thám hiểm vùng cao nguyên Trung Việt.
Đầu tiên ông muốn tìm một đường bộ nối liền Nha Trang với Sài Gòn. Từ Nha Trang, ông đi ngựa ra Phan Rí rồi thuê một người dân thiểu số dẫn đường vào rừng. Đến Di Linh gặp nhiều trở ngại đành quay lại Phan Thiết, lấy thuyền về Nha Trang.
Lần thất bại nầy không làm ông nản chí. Yersin quyết tâm thám hiểm các miền rừng núi dọc theo dãy Trường Sơn.
Thời bấy giờ các vùng ấy còn là những nơi bí hiểm, rừng thiêng nước độc. Ngoài các bộ lạc thiểu số không khuất phục triều đình, ít ai đặt chân đến nơi hoang vu ấy.
Ngày 23.9.1892, Yersin lên đường đi thám hiểm lần thứ nhứt, cùng với một người bồi và năm ngườI cộng sự Việt Nam, đem theo máy kinh vĩ để ghi toạ độ các làng mạc của các dân tộc thiểu số.
Từ Nha Trang ông ra Ninh Hoà, lên Ban Mê Thut, đến Stung Treng, nằm trên bờ sông Cửu Long, về Pnom Penh rồi theo đường thủy ra Phú Quốc về cảng Sài Gòn.
Trong thời gian hai tháng rưỡi, Yersin đã thành công việc quan sát các bộ lạc thiểu số, chụp 140 ảnh giá trị, và vẽ hoạ đồ những vùng đã trải qua. Ông đã phát giác những phụ lưu của sông Cửu Long phát nguyên tại Trường Sơn chảy đến Stung Treng.
Yersin thực hiện cuộc thám hiểm nầy với tính cách cá nhân, không có sự trợ giúp của chánh quyền.
Tháng 10.1892, Yersin về Paris để tường trình những kết quả đã thâu thập với các giới thẩm quyền, hầu mong được viện trợ cho các cuộc thám hiểm khác. Sau nhiều lần thất bại, nhờ người quen giới thiệu ông được bộ quốc gia giáo dục tặng 15 ngàn quan Pháp, và gởi gắm ông cho De Lanessan.
Ngày 29.1.1893, tại Sài Gòn, Yersin gặp Jean Marie De Lanessan, toàn quyền Đông Dương, giao cho ông nhiệm vụ thám hiểm vùng Sơn Lâm phiá nam Trung Việt, nghiên cứu phương án làm đường đi đến các vùng dân tộc thiểu số, khai thác khoáng sản và lâm sản, cùng khả năng chăn nuôi.
Phát giác cao nguyên Lâm Viên
Ngày 29.1.1893, ông khởi hành từ Biên Hoà có 4 người Việt phụ tá. Sau khi vượt qua núi rừng hiểm trở và các làng mạc của dân tộc thiểu số, ngày 21.6.1893 Yersin phát giác Cao Nguyên Lâm Viên, cao 1500 thước, tức thành phố Đà Lạt ngày nay. Yersin ghi trong sổ tay: "Ấn tượng thật là sâu sắc. Từ trong rừng thông bước ra, tôi thấy ngay trước mặt khu cao nguyên rộng lớn trơ trụi, giống như mặt biển đang cuộn lên những đợt sóng xanh rì. Rặng núi Lâm Viên với 3 đỉnh cao 2000 thước, vươn lên từ chân trời phiá tây bắc, tạo nên bức phông hùng tráng làm tăng vẻ diễm lệ của vùng nầy".
Năm 1899, Paul Doumer toàn quyền Đông Dương cho thiết lập nơi ấy một trung tâm nghỉ mát cho người Âu Châu, sau này là thành phố Đà Lạt. "Đà Lạt" là tên gọi của địa phương do ở đó có nhiều suối lớn, sông dài và có dân tộc LẠT cư ngụ. Giải thích khác của một cố đạo bằng tiếng La Tinh là sai lạc.
Lần ấy, trên đường về, đoàn thám hiểm bị phục kích. Yersin bị thương phải đưa võng về Phan Rang. Kẻ tấn công ông là tù chánh trị thoát ngục. Một tuần sau, dân quân bắt lại được 40 người trong 56 người vượt ngục, có cả người chỉ huy tên Thục, cao lớn và thanh lịch. Yersin viết thư cho mẹ về cuộc hành hình của tù chánh trị : "Hôm nay, Thục bị xử trảm. Con có dự. Thật ra rất là ghê tởm. Sau nhát gươm thứ tư đầu mới rơi. Hơn nữa, Thục rất trầm tĩnh. Những người Việt Nam chết can đảm khác thường".
Ngày 12.2.1894 Yersin lại lên đường thám hiểm lần thứ ba. Ngoài 54 người tùy tùng còn có một toán lính tập mang súng đi theo hộ vệ. Yersin khảo sát những vùng từ Lâm Viên đến Đarlac rồi xuyên qua Trường Sơn đến Attopeu điạ phận Ai Lao. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, ông đi về phía Đông, xuyên Trường Sơn lần nữa rồi tới Tourane (Đà Nẵng).
Chuyến này gay go cực nhọc hơn trước. Ngày 11.4, ông ghi trong sổ tay: "Đường đi thật là khủng khiếp. Trong 4 ngày liên tiếp, chúng tôi phải vượt qua một vùng núi hiểm trở, trèo xuống, leo lên, cứ đơn điệu như thế mãi làm cho chúng tôi rất mệt mỏi. Cây cối chen chúc. Không có đường mòn. Chúng tôi phải khòm lưng chui qua các bụi tre. Vì trời mưa nên rừng có nhiều vắt không thể tả được. Những người Việt Nam đi cùng với chúng tôi bị sốt rét mặc dầu đã uống thuốc ngừa… Chúng tôi đi qua các làng của bộ tộc Keuyong, Jri Taseng, rất cực nhọc".
Một khúc quanh lịch sử trong đời Yersin
Năm 1892, ít lâu sau vụ thám hiểm lần thứ nhứt, Calmette khuyên Yersin nên gia nhập đoàn y sĩ hải ngoại để khỏi lo về mặt tài chánh. Chính trong khi giữ chức vụ nầy, Yersin có cơ hội tìm ra vi khuẩn bịnh DịCH HẠCH.
Yersin không đoán trước được rằng nhiệm vụ mới nầy sẽ đưa ông đến đài vinh quang, và ông phải cần viện Pasteur bảo trợ như trước.
Yersin dưới mắt người đồng thời
Các đồng nghiệp của ông Yersin tại viện Pasteur Paris và những người Pháp tại Đông Dương thấy ông phân tán trí thức lấy làm gai mắt, cho ông là một người kỳ dị. Càng gai mắt hơn nữa là ông thành công trên nhiều lãnh vực.
Luôn luôn tiên phong trong những lãnh vực mới, những phát minh tối tân, ông là một tư nhân đầu tiên có được:
– Máy phát thu bằng chữ morse để liên lạc Nha Trang, Suối Dầu, Hòn Bà;
– Máy thu thanh tân tiến, bắt được các đài bên Pháp;
– Kính thiên văn;
Năm 1910, ông lại muốn tậu một chiếc phi cơ, nhưng vì Đông Dương không có sân bay, ông đành bỏ dự định này. Trong khi công sứ tại Nha Trang chưa có xe nhà thì Yersin đã gởi mua tại Pháp chiếc Serpollet năm mã lực, chiếc xe Clément và một thuyền máy. Hai năm sau, ông bán lại chiếc Serpollet năm mã lực cho ông công sứ Nha Trang, rồi sang Paris tậu chiếc xe Serpollet sáu mã lực đem ra Hà Nội làm lác mắt chẳng những dân cư Hà Nội mà cả chánh quyền. Viên tướng chỉ huy quân đội Pháp còn nhờ ông đưa xe đi diễn binh qua cầu Long Biên. Tháng Giêng năm 1905, Yersin bán chiếc Serpollet sáu mã lực, tậu chiếc Serpollet mười một mã lực. Năm 1907, ông mua một chiếc Alcyon. Năm 1912, ông mua chiếc Clément Bayard mười lăm mã lực, nhưng khi chiếc xe này không chạy được nữa, ông trở lại dùng xe đạp. Đến năm 1925 vì cần phương tiện liên lạc giữa Nha Trang, Hòn Bà, Dran, Djiring, ông lại tậu chiếc Zèbre vừa mau vừa êm. Nhưng một hôm về ngang Phan Rang, ông suýt đụng một em bé, nên ông bán chiếc Zèbre, và từ đấy ông dùng lại xe đạp. Năm 1943, vì phổi yếu, ông dùng xích-lô. Nhắc đến Yersin, ai cũng hình dung một ông cụ già khiêm tốn ăn mặc xuềnh xoàng đi chiếc xe đạp cũ kỹ, quên rằng Alexandre Yersin đã làm bực mình các giới chánh quyền bấy giờ với những chiếc ô-tô tối tân. Luôn luôn tiên phong trong những lãnh vực mới, năm 1932, khi chuyến bay đầu tiên của hàng không Pháp nối liền Sài Gòn-Paris thì ông dùng máy bay để vận chuyển. Tháng 3 năm 1940, Yersin bảy mươi bảy tuổi, lấy máy bay về Pháp để dự buổi họp hằng năm của viện Pasteur Paris. Một cuộc hành trình rất gay go. Ngày 30 tháng 5 năm 1940, chuyến máy bay cuối cùng đưa ông về Việt Nam, trước khi quân đội Đức vào Paris.
Nơi cư trú của Yersin
Yersin thích sống chung với người dân nghèo chài lưới và đã chọn cái lô-cốt hai tầng lầu bỏ hoang gần xóm Cồn và cửa sông cái. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí quyển XI về Khánh Hoà, đó là một đồn biên phòng rất lâu đời.
Từ năm 1895, Yersin đã tạo lập cho mình chỗ ở tuyệt vời để hằng ngày quan sát và hoà nhập với thiên nhiên.
Lô-cốt mỗi bề khoảng 7m50. Mỗi tầng có hành lang rộng bao bọc. Có thể đi dọc hành lang để quan sát. Ông bố trí tầng trệt là phòng ăn, tầng một là phòng làm việc và tầng hai là phòng ngủ. Về sau, nóc nhà làm thêm một vòng tròn để dựng kính thiên văn.
Nhà bác học vị tha
Đó là một người không chạy theo danh vọng, quyền lợi cho riêng mình.
Ông đầu tư ngay số tiền kèm theo các giải thưởng vào các công trình đang thực hiện. Huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh đem lại cho ông 250 quan Pháp mỗi năm. Giải Audiffret của Hàn lâm viện Tâm lý và Chính trị có kèm theo 15000 quan Pháp. Ông dùng số tiền này tiếp trợ cho nền tài chánh Suối Dầu. Giải thưởng Lassen đem lại cho ông 8000 quan Pháp. Ông dùng ngay tiền đó vào việc mở đường mòn nói liền Suối Dầu-Hòn Bà.
Tháng 12 năm 1927, khi nhận giải thưởng Leconte của viện Hàn lâm Khoa học, ông tuyên bố :"Giải thưởng nầy là vinh dự cho viện Pasteur và số tiền nhận được sẽ giúp cho các cuộc thí nghiệm trồng cây quinquina".
Ông không hãnh diện, không phô trương huy chương. Đây là một đoạn thư ông viết cho mẹ năm 1890 khi ông hai mươi bảy tuổi :" Mẹ hãy tưởng tượng xem ông Pasteur đã xin được cho con huân chương của Hàn lâm viện. Các thành viên của viện đại học Pháp rất mong muốn có được tấm huân chương màu tím này, song bản thân con lại không hề thấy mình xứng đáng được nhận".
Khi Vua Bảo Đại trao tặng bội tinh Kim Khánh cho ông, vì phép lịch sự ông buộc lòng phải cho Vua Bảo Đại đeo Kim Khánh vào cổ mình, nhưng khi vừa bước xuống, ông đã e lệ dùng chiếc mũ ép lên ngực che hết chiếc huân chương Kim Khánh. Năm 1938, trường trung học Đà Lạt muốn có một bức tượng bán thân của Yersin, ông cương quyết từ chối làm mẫu.
Khi Toàn Quyền Decoux muốn biết tên những người quyền quí, danh tiếng, mà Yersin đã gặp, ông trả lời :"Ở Đông Dương tôi ít giao thiệp với những hạng người ấy."
Thật ra Yersin đã có lần gặp nhiều người danh tiếng. Năm 1896, Thống Chế Lyantey (lúc bấy giờ là thiếu tá) đến Nha Trang có ghi vào sổ tay :"Vị bác sĩ trẻ này tận tụy với vi trùng học, nghiên cứu, chế tạo "vắc-xe" với một niềm tin tưởng, ý chí đam mê của một nhạc sĩ cao siêu. Những giờ thăm viện của ông làm phấn khởi tinh thần, mặc dầu viện còn thô sơ."
Người con hiếu thảo
Xa nhà, dầu ở Pháp, Việt Nam hay Trung Quốc, hầu như tuần lễ nào ông cũng viết thư cho mẹ. Tính đến khi mẹ ông mất, năm 1905, ông đã gởi ngót 1000 bức thư, cho bà biết sức khỏe và công việc hằng ngày của mình.
Khi mẹ mất rồi, Yersin tiếp tục gởi thư cho chị là bà Emilie.
Trong thư nhiều khi đầy vẻ hài hước, như khi ông ở Hồng Kông viết cho mẹ: "Con còn nhiều điều nữa muốn thưa với mẹ, nhưng có hai xác chết đang chờ con. Họ muốn ra nghĩa địa cho sớm. Tạm biệt mẹ thân yêu. Mẹ rửa tay sau khi đọc thư này kẻo bị lây dịch hạch, mẹ nhé."
Yersin nhà nhân ái
Noel Bernard viết về A. Yersin có câu: "Ít có người không vụ lợi như Yersin. Khiêm tốn, giản dị, lịch sự".
Ông ăn mặc xoàng xĩnh bộ đồ kaki bạc màu cũ kỹ, áo khoác bốn khuy ba túi, áo sơ-mi vải trắng hở cổ, quần kaki trên rộng dưới hẹp giặt sạch mà không bao giờ ủi. Giày vải bố. Trong túi ngực bên trái đựng một cái đồng hồ trái quít đeo bằng một sợi dây gai đỏ. Phải nói rằng Yersin không thiếu đồng hồ. Năm 1945, người ta tìm thấy trong tủ sắt của viện Pasteur Nha Trang rất nhiều đồng hồ trái quít chế tạo tại Thụy Sĩ, phần lớn bằng vàng, dây đeo cũng bằng vàng, bên trong cái nắp đều có dòng chữ: Chế tạo riêng cho Bác Sĩ Yersin.
Ngày 22 tháng 11 năm 1920, ông đáp tàu Paul Lecat đi Marseille. Một phục vụ viên trẻ của tàu không biết ông, cương quyết không cho ông vào phòng ăn. Nội qui của tàu bắt buộc phải thắt cravate khi bước vào phòng khách. Yersin trở về cabine. Sau đó, ông quay lại phòng ăn nói với phục vụ viên: "Chiếc cravate nầy cậu có chấp nhận không?" Vừa nói ông vừa chỉ tay vào chỗ hở ở cổ áo nơi ông vừa đút tấm huân chương "Bắc Đẩu Bội Tinh" vào.
Năm 1925, một buổi sáng ông đến hãng xe gặp một người khách sang trọng từ Pháp mới tới. Tên nầy thấy ông ăn mặc xoàng xĩnh buột miệng kêu lên: "Tên bụi đời lang thang nầy làm gì ở đây?
Bữa ăn của ông thường đạm bạc. Món ăn ông ưa thích thường ngày chỉ là món xúp rau cải ăn với bánh mì hoặc biscotte. Trong thời gian chiến tranh ông phải ăn bánh tráng thay cho bánh mì. Ông thích ăn cá hơn là thịt. Các loại cá được ông ưa chung là cá thu, cá mú.
Món rượu khai vị của ông thường chỉ là thứ nước có bột quinquina do ông tự chế. Nước uống đôi khi ông dùng nước lá sả mà ông bảo rằng dễ tiêu hoá. Có lần đi thám hiểm vùng cao nguyên, ông chỉ ăn cơm không trong hai tháng.
Vì Nha Trang thường có bão táp, Yersin nghiên cứu về khí tượng, thời tiết để giúp ngư dân.
Ông cho làm hai cái bồ to, có đường kính một mét, trên sơn màu đen. Khi có bão, hai cái
bồ được kéo lên hai cây cột bằng phi lao trên núi Sinh Trung để báo hiệu.
Tháng 11 năm 1939, đoán biết rằng một cơn bão lớn sẽ đổ vào bờ biển Nha Trang, Yersin vi tập trung tất cả ngư dân xóm Cồn vào trong nhà mình. Cơn bão biển dữ dội đêm ấy đã cuốn trôi nhiều nhà cửa xóm Cồn, nhưng bà con vẫn an toàn.
Từ hôm ấy, Yersin được nhiều người dân xóm Cồn tặng cho biệt hiệu "người đã trị con sóng thần".
Viết về Yersin, và viện Pasteur Nha Trang, Henri Jacotot đã có những lời ca ngợi tốt đẹp :
"Trong những thời điểm quan trọng, Yersin luôn luôn sống trong tình trạng báo động thường trực cả ngày lẫn đêm." (Yersin et son temps, H. Jacotot-1937)
Chẳng những lo bảo vệ dân chúng tránh tai nạn bão lụt, Yersin còn luôn luôn tỏ ra nhân ái đối với người dân ở Nha Trang, nên ông được người Việt yêu chuộng và kính phục. Ông tự coi mình như một người dân trong làng, một người có phần may mắn hơn ngườI khác, vì vậy ông thấy có bổn phận an ủi và giúp đỡ thuốc men.
Một hôm đi xe đạp từ nhà đến sở, ông bị một tài xế bất cẩn đụng ngã. Không nói một lời nào, ông vội vã dựng xe đạp lên, rồi đi đến viện để băng bó, không đá động gì đến người tài xế có lỗi.
Lần khác ông gặp người nông phu nằm ngủ trong xe bò dưới gốc cây bàng. Mặt trời lên cao, bóng mát thay chiều, ông bảo những người phụ tá đẩy xe bò vào chỗ mát.
Ông rất thương yêu trẻ con xóm Cồn, thường chiếu phim cho chúng xem. Trẻ con cũng thích ông chia kẹo hằng ngày cho chúng. Một hôm, chúng đánh vỡ chậu hoa, ông bảo người giúp việc: "Đừng rầy đánh, người ta sợ."
Ông thường đọc báo chí Việt ngữ. Một hôm đến viện ông trao cho ông Bùi Quang Phương, người cộng sự từ năm 1897, bài thơ Năm Cụ Ông chép trong báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng nói về năm bộ trưởng đương kim bị cách chức và thay thế bằng năm người khác do Pháp chỉ định. Bài thơ khó hiểu vì có nhiều nghĩa bóng.
Yersin rất nhẫn nại tử tế vớI những người cộng sự bản xứ, không bao giờ to tiếng, không bao giờ thị oai.
Ông Năm
Người dân Nha Trang gọi ông là Ông Năm vì theo ngạch nhà binh ông là Y sĩ Đại tá. Một tác giả Pháp Elisabeth Duclosel ghi ông là Nam, bác sĩ Annam, là sai.
Ông sống thanh đạm độc thân, tiết chế xa hoa nhục dục.
Elisabeth Duclosel thêu dệt cho ông một quan hệ tình ái giữa ông và một công chúa của bộ lạc Rhadé, thật đáng buồn cười.
Yersin đến với người Việt Nam bằng một tấm lòng chân thật. Đó là chìa khoá kỳ diệu đã mở cửa cho ông đi vào tình cảm của người Việt Nam.
Ông ra đi rất thanh thản, ngày 01 tháng 03 năm 1943 vào lúc 01 giờ sáng, vừa đúng tám mươi tuổi.
Một ngày trước khi từ giã cõi đời, ông còn ngồi trên ghế xích-đu dùng ống dòm đo mực thủy triều.
Mặc dầu có lời căn dặn của ông trong di chúc muốn được an táng đơn giản, đám táng của ông to lớn chưa từng thấy ở Việt Nam. Ngoài đại diện của chánh quyền còn vô số người Việt, người Pháp, người Chà, người Hoa, người Thượng. Dân chúng bày hương án hai bên đường từ Nha Trang lên tận Suối Dầu nơi an táng ông.
Trong năm mươi bảy năm hoạt động khoa học (1886 – 1943) Yersin đã công bố năm mươi lăm công trình và bốn mươi tác phẩm về y học, trong đó có mười ba đề tài chuyên cứu về dịch hạch, và mười lăm đề tài chuyên về nông nghiệp trồng cây quinquina và hévéa.
Người dân Việt Nam vẫn tiếp tục tôn thờ Yersin. Hà Nội, Sài Gòn, Nha Trang, vẫn còn giữ nguyên đường Yersin.
Bên cạnh mộ Yersin có xây một cái miếu nhỏ đặt ảnh ông và hương án. Tại chùa Linh Sơn và Long Tuyền có bàn thờ ông bên cạnh bàn thờ Phật, mặc dầu lúc sanh thời, người dân Nha Trang không hề thấy Yersin bước chân vào chùa hoặc nhà thờ.
Mỗi năm đến ngày 01.03 người dân Nha Trang đến đốt hương và nghiêng mình trước mộ Yersin.
Yersin mãi mãi đi vào lòng của người Việt Nam. Đó là đền Panthéon của Ông Năm và ông còn sống mãi mãi, vì đại văn hào Lỗ Tấn có nói :
"Người chết chỉ thật là chết, khi không còn tồn tại trong lòng người sống nữa."
" Người quá khứ mà hình ảnh còn tồn tại trong lòng người sống, thì chưa hẳn là chết."
Di chúc của Bác Sĩ Alexandre Yersin
***Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu. Yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại tại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho viện Pasteur Nha Trang, và những người cộng sự lâu năm.
Đám táng làm giản dị, không huy hoàng không điếu văn.***
Những kỷ vật của ông còn lại, viện Pasteur Nha Trang đã trân trọng giữ gìn. Chiếc giường, ghế xích-đu, bàn làm việc, ghế ngồi, tủ sách, kính hiển vi, kính viễn vọng, đều được trưng bày trong viện Bảo Tàng Nha Trang.