Trang chủ » Phổ biến kiến thức » Phòng và chữa bệnh » Bạn biết gì về chứng rịn nước tiểu ở phụ nữ?

Bạn biết gì về chứng rịn nước tiểu ở phụ nữ?

Có 4 loại mất chủ động tiểu tiện là: mất chủ động toàn bộ do mất hiệu lực cơ thắt hoặc có sự tiếp nối bất thường giữa đường niệu và da bỏ qua hiệu lực của cơ thắt; mất chủ động áp lực, mất chủ động thúc bách; mất chủ động do tràn dòng nước tiểu xảy ra khi ứ nước tiểu mạn tính. Trong đó, mất chủ động áp lực và mất chủ động thúc bách là hai loại mất chủ động tiểu tiện hay gặp nhất.

(Ảnh sưu tầm)

Mất chủ động áp lực được định nghĩa là rò rỉ nước tiểu tự động khi gắng sức, ho, hắt hơi. Khi đó, áp lực của bàng quang vượt qua sức cản của niệu đạo dưới các tình trạng gây tăng áp lực trong ổ bụng. Cân bằng giữa áp lực niệu đạo và bàng quang bị ảnh hưởng bởi cả yếu tố nội tại như cơ niệu đạo, dòng máu, sự phân bố thần kinh và các yếu tố ngoại lai như mức độ gắng sức của niệu đạo, cân nặng và hoạt động thể lực của bệnh nhân.

Mât chủ động thúc bách là hiện tượng rò rỉ nước tiểu không tự ý đi kèm với hoặc xảy ra ngay trước sự thôi thúc bài tiết mạnh, không ngờ đến là do hoạt động không kiểm soát được của cơ mu bàng quang vượt qua sức cản của niệu đạo. Một bệnh nhân có thể mắc cả 2 loại và cần phân biệt vì cách điều trị khác nhau. Tuổi dễ mắc bệnh nhất là giữa 45 và 49. Các yếu tố nguy cơ đã biết của mất chủ động áp lực là da trắng, béo phì, có thai và sinh đẻ nhất là sinh ngả âm đạo so với sinh mổ. Các biểu hiện kèm theo có thể của mất chủ động áp lực là giảm ham muốn tình dục, khô âm đạo, giao hợp đau.

Các số liệu mô tả chỉ ra tăng tỉ lệ mất chủ động tiểu tiện ở những phụ nữ đẻ đường âm đạo so với mổ đẻ nhất là những trương hợp đẻ ngôi mông cho thấy có giảm tỉ lệ mất chủ động tiểu tiện trong vòng 3 tháng sau đẻ so với đẻ ngôi mông theo đường âm đạo nhưng ở thời điểm 2 năm sau đẻ không có sự khác nhau rõ rệt. Thực tế tỉ lệ mất chủ động tiểu tiện cao hơn ở những phụ nữ đã qua sinh mổ so với những phụ nữ chưa đẻ lần nào cho thấy, tăng nguy cơ sau đẻ có thể do bản thân cuộc đẻ, hoặc do các yếu tố khác không liên quan đến cách thức đẻ.

 Đánh giá

Đánh giá mất chủ động áp lực bao gồm hỏi tiền sử và khám thực thể, nhật ký tiểu tiện của bệnh nhân, xét nghiệm nước tiểu phát hiện nhiễm trùng, cùng với các xét nghiệm chuyên khoa như đánh giá thể thức cặn nước tiểu sau khi đi tiểu và thử nghiệm gắng sức khi ho. Vì nhiều  phụ nữ miễn cưỡng thảo luận về mất chủ động tiểu tiện nên bảng hỏi sàng lọc có thể hữu ích. Bảng hỏi ngắn gồm những câu hỏi được dùng để sàng lọc mất chủ động và phân biệt mất chủ động thúc bách (độ đặc biệt và độ nhạy tương ứng là 77% và 75%) cũng như đánh giá các triệu chứng của bệnh nhân để có thể đưa ra cách điều trị. Bệnh nhân cũng được hỏi về mất chủ động  đại tiện, các biểu hiện của sa các cơ quan trong vùng tiểu khung có thể kèm theo mất chủ động tiểu tiện.

Khi khám vùng chậu, đánh giá cơ bằng cách bảo bệnh nhân co các cơ vùng chậu quanh ngón tay người khám, cần phải xác định cả khả năng co cơ chủ ý cũng như sức mạnh của cơ. Cần chú ý xem có hiện tượng xa các cơ quan trong vùng tiểu khung trong khi làm thao tác Valsalva. Thực hiện test gây tăng áp lực bằng cách bảo bệnh nhân ho khi bàng quang đầy để xem có hiện tượng rò rỉ nước tiểu không nhằm hỗ trợ cho chuẩn đoán.

Nên đề nghị bệnh nhân ghi lại nhật ký tiểu tiện ít nhất 3 ngày, gồm thể tích nước tiểu và loại dịch đưa vào, số lần đi tiểu cũng như lượng nước tiểu mỗi lần đi tiểu, chi tiết về các lần mất chủ động và các yếu tố thúc đẩy. Bình thường lượng nước tiểu mỗi lần đi tiểu là khoảng 200 – 400ml, đi tiểu 8 – 12 lần mỗi ngày và khoảng 1 lần một đêm. Cũng nên đánh giá xem có nhiễm trùng đường tiểu không bằng cách phân tích và nuôi cấy nước tiểu vì nhiễm trùng đường tiểu có thể gây mất chủ động tiểu tiện mặc dù là thường gây loại mất chủ động thúc bách hơn. Đánh giá khả năng làm rỗng bàng quang bằng cách đo lượng nước tiểu còn lại sau khi đi tiểu thường qua ống thông. Lượng nước tiểu còn lại ở 2 lần lấy ngẫu nhiên trên 150ml gợi ý có ứ đọng nước tiểu (có thể dẫn đến mất chủ động tràn dòng) và cần đánh giá tiếp về rối loạn chức năng tiểu tiện. Các xét nghiệm về động học tiểu tiện để đánh giá chức năng niệu đạo, dung tích và dự ổn định bàng quang, động học tiểu tiện không được chỉ định thường quy trước khi bắt đầu điều trị mất chủ động áp lực, nhưng lại được chỉ định trước khi phẫu thuật để hỗ trợ cho chuẩn đoán rò rỉ nước tiểu không do co thắt bàng quang và để đánh giá hoạt động bài niệu.

Xử trí

 Liệu pháp hành vi và lý liệu pháp

 Bước đầu tiên điều trị mất chủ động tiểu tiện áp lực bao gồm các bài tập đáy chậu (co cơ đáy chậu) và điều chỉnh hành vi. Cách hiểu về điều trị khỏi thường xảy ra hơn ở phụ nữ luyện tập các bài tập về đáy chậu so với những phụ nữ không tập. Mặc dù khuyến cáo về số lần lặp lại điều trị rất khác nhau, nhưng hiệu quả đạt được sau khoảng 30 – 50 lần làm thao tác này một ngày. Tuy nhiên, không phải tất cả phụ nữ đều có thể thực hiện được các động tác đúng với hướng dẫn bằng miệng. Người phụ nữ được hướng dẫn thực hiện các thao tác trong khi bác sĩ khám vùng chậu bằng hai tay. Không nên thực hiện các bài tập đáy chậu trong khi đang đi tiểu vì sự ngắt quãng tiểu tiện thường xuyên có thể gây rối loạn hoạt động tiểu tiện và khả năng ngừng dòng nước tiểu giữa chừng không xác định là đã tập đúng.

Với những phụ nữ béo phì hoặc quá cân thì giảm cân có thể cải thiện mất chủ động tiểu tiện. Thay đổi thói quen như bỏ thuốc và giảm caffeine không được chứng minh là có hiệu quả làm giảm mất chủ động tiểu tiện tuy vẫn thường được khuyên thực hiện.

 Các thuốc

Duloxetin hydrochlorid, chất ức chế tái hấp thu serotonin được dùng để điều trị trầm cảm cũng có hiệu quả điều trị mất chủ động tiểu tiện áp lực. Một nghiên cứu lớn ngẫu nhiên đã chỉ ra thuốc làm giảm số lần mất chủ động tiểu tiện áp lực và cải thiện cuộc sống mặc dù tác dụng phụ chủ yếu là buồn nôn thường xảy ra nhẹ. Thuốc đối kháng alpha như clonidin được dùng trong thực nghiệm để điều trị nhưng hiệu quả trong thực hành lâm sang còn hạn chế.

Điều trị bằng estrogen sau mãn kinh trước đây được cho là giảm các triệu chứng mất chủ động tiểu tiện áp lực. Nhưng những nghiên cứu gần đây chỉ ra nguy cơ cao hơn bị mất chủ động tiểu tiện thúc bách và áp lực ở những phụ nữ ngẫu nhiên dùng estrogen đơn thuần hoặc phối hợp với progesterone so với những người nhận thuốc và vì vậy liệu pháp thay thế hormone bị chống chỉ định trong trường hợp này.

Các dụng cụ trợ giúp

Các dụng cụ điều trị mất chủ động tiểu tiện áp lực bao gồm tampon và mũ chụp. Mũ chụp là dụng cụ đặt trong âm đạo để đỡ các cơ quan trong khung chậu. Mũ chụp dùng trong mất chủ động tiểu tiện có những chỗ phồng đặt dưới niệu đạo để tăng cường niệu đạo. Dụng cụ này cần được bảo dưỡng, lấy ra và rửa sạch thường xuyên; nguy cơ của việc sử dụng dụng cụ là nhỏ và có thể bao gồm xước mô âm đạo và khí hư. Dụng cụ này có nhiều kích thước và hình dạng khác nhau cho bạn chọn lựa để tạo cảm giác thoải mái và làm giảm triệu chứng. Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên, đối chứng so sánh những người dùng tampon, mũ chụp và không dùng thấy 2 dụng cụ này có hiệu quả ngang nhau trong việc làm giảm số lần mất chủ động áp lực.

Phẫu thuật

Có rất nhiều thủ thuật được đưa ra, nhưng thủ thuật được ưa chuộng là thủ thuật treo âm đạo Burch và thủ thuật treo mạc. Cả 2 phương pháp này được áp dụng để tăng cường cho âm đạo. Theo một số nghiên cứu thì thủ thuật treo mạc có hiệu quả hơn, nhưng lại có tỉ lệ gây ra tác dụng phụ cao hơn bao gồm nhiễm trùng tiết niệu, rối loạn chức năng bài niệu và các triệu chứng của bàng quang hoạt động quá mức. Thủ thuật treo xâm lấn tối thiểu được phát triển gần đây có thể thực hiện dưới gây tê tại chỗ với thời gian hồi phục ngắn và rút ngắn thời gian phụ thuộc catheter.

Tuy nhiên, Tất cả các thủ thuật phẫu thuật đều có những nguy cơ như là sự hoạt động quá mức của bàng quang, rối loạn hoạt động bài niệu (có thể là vĩnh viễn), tăng nguy cơ nhiễm trùng đường tiểu và không hết hoàn toàn các triệu chứng mất chủ động tiểu tiện. Mặc dù vậy đa số phụ nữ bị mất chủ động tiểu tiện mức độ vừa và nặng trải qua phẫu thuật đều cảm thấy hài lòng cũng như được cải thiện chất lượng cuộc sống bao gồm cả cải thiện hoạt động tình dục.

(TTVN số 4)

Gửi thảo luận