Trang chủ » Phổ biến kiến thức » Dinh dưỡng - Sức khoẻ » Uống mật động vật có thực tốt?

Uống mật động vật có thực tốt?

Bởi thế, người ta, đặc biệt là “cánh nhậu nhẹt”, đã thi nhau nuốt sống hoặc uống rượu có pha các loại mật động vật như mật bò tót, mật rắn, mật ba ba, mật rùa, mật trăn, mật mèo, mật khỉ… thậm chí cả mật cá trắm và mật cóc với hy vọng rằng sẽ làm tăng cường sinh lực, cải thiện sức khỏe, giải rượu, giải độc và phòng chống nhiều loại bệnh tật, kể cả bệnh ung thư! Đây là điều hoàn toàn sai lầm và hết sức nguy hiểm.

Text Box: Mật động vật dùng trong y học phương Đông- Cổ họng sưng đau: lấy chút ít mật cá trắm phơi khô hòa với mật ong rồi ngậm, mỗi ngày vài lần.- Đau mắt đỏ có màng: lấy nước mật cá nhỏ vào mắt.- Âm hộ sưng cứng như đá, đau nhức nhiều: mật cá trắm 7 cái hòa với lụa tơ tằm 12g đã đốt thành tro rồi bôi vào vị trí tổn thương.Trẻ em đờm dãi ủng trệ: mật cá trắm 1 cái hòa với một ít khô phàn, đại hoàng, sắc lá xương sông cho đặc rồi trộn với 3 vị thuốc trên bôi vào họng.Trong y dược học cổ truyền phương Đông, quả thực nhiều loại mật động vật đã được sử dụng để làm thuốc chữa bệnh. Ví như, mật cá trắm (thanh như đởm), kể cả cá trắm đen và cá trắm trắng, vị đắng, tính hàn, có công dụng thanh nhiệt giải độc, thoái ế minh mục..

Trong sách Lĩnh Nam bản thảo, danh y Hải Thượng Lãn Ông viết: “Thanh ngư mật cá trắm giang hồ, mua lấy đem về và để khô, chữa kẻ té cây cùng nhiệt độc, vì chưng tính phó thủy ngao du”.

Sách Dược tính chỉ nam ghi rằng: “Mật cá trắm chủ trị những chứng ác sang, hòa nó với vôi mà bôi vào chỗ lở. Người đau cổ họng hoặc sưng tấy, hòa nó với bột Bạch phấn phơi chỗ bóng mát, dùng một chút thổi vào được là khỏi. Khi bị hóc xương cá, dùng một chút mà ngậm rồi nuốt dần xuống thì xương xuôi ngay”.

Theo sách Bản thảo cương mục, mật cá trắm có công dụng tả nhiệt, làm sáng mắt, dùng để chữa mắt sưng đỏ đau, có màng, hầu tý (đau họng), nhiệt sang (lở loét do nhiệt). Để chữa đau mắt đỏ, sách Cung thị dị giản phương dùng hoàng liên thái phiến, sắc đặc, bỏ bã, cô thành cao rồi cho mật cá trắm vào trộn đều, thêm một chút mai phiến, đựng trong lọ kín dùng dần, mỗi ngày nhỏ mắt 1 lần.

Sách Tứ xuyên trung dược chí ghi lại kinh nghiệm chữa ác sang bằng cách lấy mật cá trắm, hạt gấc và thổ đại hoàng sấy khô, tán mịn, trộn đều rồi bôi vào vết loét… 

Hay như mật trăn (còn gọi là nhiêm xà đởm hoặc mang xà đởm), vị ngọt đắng, tính lạnh, hơi độc, có công dụng táo thấp, sát trùng, minh mục khứ ế (làm sáng mắt và chữa mắt có màng), trừ cam, tiêu thũng chỉ thống (chống phù nề và giảm đau), thường được dùng để chữa các chứng bệnh như đau mắt đỏ, mắt có màng, trẻ em da vàng, người gầy, bụng to, tiêu hoá không tốt, kèm theo nhọt lở chảy nước (cam sang) hoặc bị kiết lỵ (cam lỵ), trĩ viêm loét, sưng đau, xỉ nặc (răng lợi sưng đau, lở loét, chảy máu, miệng hôi thối)…

Ví như: để chữa trĩ viêm tấy sưng đau dùng bột mật trăn trộn với dầu vừng bôi hàng ngày; để chữa đau mắt đỏ và mắt có màng dùng mật trăn 0,5g, phèn chua 0,5g, nước chanh 1 thìa nhỏ, hợp lại chưng chín, lọc lấy nước trong nhỏ mắt; để chữa viêm loét lợi, viêm quang răng gây tụt lợi dùng mật trăn 10 giọt trộn đều với 10 hạt táo ta đã đốt tồn tính và tán thành bột rồi bôi vào nơi tổn thương mỗi ngày 2 lần hoặc dùng mật trăn trộn với bột phèn phi và bột hạnh nhân (đã bỏ vỏ và cắt hai đầu) để bôi vào vị trí bị bệnh; để chữa bong gân, sai khớp dùng rượu ngâm mật trăn hoà với mật gấu, huyết lình, hạt gấc giã nát… xoa bóp nhiều lần trong ngày; để chữa sốt cao trẻ em dùng mật trăn uống với nước ấm; để chữa thương tổn viêm loét ở trẻ bị chứng cam dùng bột mật trăn rắc vào nơi bị bệnh…

Các y thư cổ như Bản thảo kinh tập chú, Bản thảo thập di, Bản thảo kinh sơ, Bản thảo cương mục, Biệt lục, Tuỳ tức cư ẩm thực phổ… đều có ghi lại những công dụng và kinh nghiệm sử dụng mật trăn để chữa bệnh.

Ví như, sách Bản thảo kinh sơ viết: "Nhiêm xà đởm, khổ trung hữu cam, khí hàn, hữu tiểu độc. Tâm phúc nặc thống giả, trùng tại nội công nghiết dã. Hạ bộ nặc sang giả, trùng tại ngoại xâm thực dã. Thấp nhiệt tắc sinh trùng, khổ hàn năng táo thấp sát trùng, cố nội ngoại thi chi giai đắc dã. Can khai khiếu vu mục, can nhiệt tắc mục thũng thống, nhập can tiết nhiệt, tắc thũng thống trừ hĩ".

Trong Nam dược thần hiệu, Tuệ Tĩnh đã viết: Nhiêm xà đởm – Mật trăn, vị ngọt đắng, tính hàn, hơi độc, chữa đau mắt, đau bụng, bệnh phong cùi, máu tích tụ và đau họng. Trong Lĩnh nam bản thảo, Hải Thượng Lãn Ông cũng viết:


Nhiêm xã đởm là mật con Trăn

Ngọt, đắng, mặn, hơi độc, tính hàn

Chữa bụng, tim đau, phong, dịch lệ

Báng, trưng, hầu tý thảy đều an.

Tuy nhiên, y học cổ truyền không bao giờ coi mật động vật là thuốc bổ mà đó chỉ là thuốc bệnh và khi dùng phải hết sức thận trọng về liều lượng, phương thức bào chế, cách sử dụng và nhất thiết phải có sự chỉ dẫn, theo dõi của các thầy thuốc có chuyên khoa. 

Một số ít loại mật động vật như mật gấu, mật lợn… đã được y học hiện đại nghiên cứu và chứng minh tác dụng dược lý trên nhiều phương diện. Ví như, mật gấu (hùng đởm) có công dụng chống co giật, giải độc, bảo hộ tế bào gan, trấn tĩnh, giảm ho, nâng cao sức chịu đựng của cơ thể trong điều kiện thiếu ôxy, giải nhiệt, giảm đau, kháng khuẩn, tiêu viêm, lợi mật, kích thích tiêu hóa, hạ huyết áp, mỡ máu và đường huyết…; mật lợn có công dụng kích thích tiêu hóa, nhuận tràng thông tiện, kháng khuẩn, tiêu viêm… Còn lại, các loại mật động vật khác hầu như chưa được nghiên cứu kiểm chứng. Bởi vậy, điều đáng tiếc là, trong những năm gần đây, vì nhiều lý do khác nhau số lượng người bị ngộ độc do nuốt hoặc uống mật động vật ngày càng nhiều. Có người phải nhập viện trong tình trạng vàng da, suy gan, suy thận nặng, thậm chí không ít trường hợp đã tử vong. 

Text Box: Khi uống mật, phải chú ý đến độ thích ứng của cơ thể với các chất có trong mật. Nếu sử dụng không đúng sẽ dẫn đến ngộ độc, thậm chí chết người. Chưa kể đường dẫn mật thông với ruột, nơi chứa rất nhiều vi khuẩn. Nếu mật bị nhiễm khuẩn, uống sống cũng có nghĩa đã đưa mầm bệnh vào cơ thể.Theo các nhà nghiên cứu, mọi dịch mật đều có chứa độc tố. Dịch mật giúp tiêu hoá thức ăn, loài vật ăn gì thì thành phần cấu tạo của mật sẽ có những chất để tiêu hoá thức ăn đó. Dịch mật người khác dịch mật của loài vật. Chính vì thế khi uống mật, phải chú ý đến độ thích ứng của cơ thể với các chất có trong mật. Nếu sử dụng không đúng sẽ dẫn đến ngộ độc, thậm chí chết người. Chưa kể đường dẫn mật thông với ruột, nơi chứa rất nhiều vi khuẩn. Nếu mật bị nhiễm khuẩn, uống sống cũng có nghĩa đã đưa mầm bệnh vào cơ thể.

Thêm nữa, trong quá trình hoạt động sinh học, mật trong cơ thể động vật chỉ tiết ra một lượng nhỏ vừa đủ để tiêu hoá thức ăn. Nếu bổ sung thêm từ bên ngoài một lượng mật khác sẽ làm cho lượng mật trong cơ thể tăng cao hơn mức bình thường và dễ gây ngộ độc, bởi trong mật có chứa axít. Ngoài ra, trong mật còn có muối kim loại, muối mật. Khi bài tiết, thận sẽ phải làm việc rất mệt mỏi để lọc các muối này. Nếu chức năng thận kém, muối mật, muối kim loại sẽ tích tụ lại gây viêm cầu thận, bể thận, hoặc lâu dài gây ra sỏi thận.

Chưa kể trong một số loại mật còn chứa độc chất, như trong mật cá trắm có cyprinolsylfate, chất alcol steroid (5a-cyprinol), khi vào dạ dày, máu sẽ đi tới gan, thận gây suy gan, suy thận cấp; trong mật gấu chó, mật vịt có axít chenodeoxycholic gây viêm gan, xơ gan…; trong mật cóc có độc tố bufotoxin, catecholamin, indolealkylamin… Bởi vậy, việc sử dụng mật động vật một cách tùy tiện là hết sức nguy hiểm, đó là chưa kể đến việc vì mục đích trục lợi, gian thương còn chế biến các loại mật “rởm” như mật gấu, mật bò tót… bằng cao dược liệu không rõ nguồn gốc khiến người tiêu dùng tiền vừa mất mà tật lại mang!

Gửi thảo luận