Gout là một bệnh lý rối loạn chuyển hóa purin làm tăng Acid uric máu dẫn đến ứ đọng tinh thể muối Urát tại khớp gây viêm khớp. Biểu hiện lâm sàng đặc trưng thường là sưng tấy, nóng, đỏ, đau dữ dội tại một hay nhiều khớp. Đa phần bệnh nhân khi điều trị dứt được cơn đau đều tự cho là đã khỏi bệnh mà không biết rằng bệnh vẫn đang âm thầm tiến triển bên trong. Nếu không được điều trị tiếp tục và triệt để, các cơn đau sẽ xuất hiện trở lại ngày càng nhiều và nặng hơn. Ở giai đoạn muộn hơn, có thể xuất hiện những u, cục gọi là hạt tophi (tiếng Anh là topus) xung quanh khớp, ảnh hưởng rất lớn đến thẩm mỹ, có nguy cơ gây biến dạng khớp và có thể dẫn đến tàn phế.
Phòng tránh
Nếu bạn đang thừa cân hay béo phì thì việc giảm cân qua ăn uống lành mạnh và thường xuyên hoạt động thể chất là điều rất quan trọng. Nghiên cứu cho thấy giảm cân có thể làm giảm nồng độ acid uric và giảm xuất hiện các cơn gút cấp. Nếu bạn nghiện rượu, bạn nên giảm hoặc ngưng hoàn toàn. Uống nhiều bia hoặc rượu mạnh làm tăng cơ hội mắc bệnh gút. Cụ thể, việc uống rượu nhiều sẽ làm sản sinh Acid lactic. Acid lactic sẽ tranh chấp đào thải với Acid uric, làm cho lượng Acid uric không thể thoát ra ngoài hoặc thoát với khối lượng không đủ. Bạn nên uống ít nhất 2-3 lít nước mỗi ngày vì nó giúp hoà tan acid uric trong cơ thể và loại bỏ theo đường tiết niệu ra ngoài. Ăn thực phẩm có nhiều purin (như cá cơm, cá mòi, ngỗng,…) cũng có thể gây tăng Acid uric. Những người ăn nhiều hải sản và thịt (đặc biệt là thịt nội tạng như gan, thận, não, tim) cũng có nguy cơ mắc bệnh gút. Ngoài ra, ở lứa tuổi 30 trở lên, nên tránh những thay đổi đột ngột của cơ thể, như đang nóng mà tắm nước lạnh, sốc cơ thể … có thể sẽ là tác nhân để sự chuyển hoá từ Acid uric thành muối Urat diễn ra.

Điều trị
Điều trị bệnh gút gồm điều trị cấp tính với colchicin và thuốc chống viêm không steroid. Theo hướng dẫn mới nhất tại Mỹ, liều tối đa colchicin cho ngày đầu là 2 viên 0.6 mg sau đó uống thêm 1 viên, tức là không quá 1.8 mg cho ngày đầu tiên. Hàm lượng viên colchicin của Âu châu là 1 mg, nên không nên dùng quá 2 viên trong ngày đầu tiên. Điều trị phòng ngừa với allopurinol, phải uống lâu dài và liều phải tăng dần đến 300 mg mỗi ngày. Một số bệnh nhân phàn nàn uống allopurinol không hiệu quả, có thể do họ không uống đủ nước hàng ngày để thải acid uric và uống liều quá thấp.
Theo tài liệu đăng trên báo bệnh viêm khớp và thấp khớp tháng 12 năm 2011, phương pháp điều trị phòng ngừa 2 bước sau đây cho thấy đủ để ngừa cơn gut tái phát: thứ nhất phải giữ cho mức acid uric dưới 6 mg/dL để lọai bỏ sạn urat (tophi: cục dưới da quanh khớp hay những nơi khác) và hòa tan tinh thể monosodium urat monohydrat, nhưng một khi đã đạt đến mức này cần phải giữ mức urat huyết thanh dưới ngưỡng bảo hòa (6.0-6.9 mg/dL).
Bác sĩ tiến sĩ Fernando Perez-Ruis thuộc viện đại học Cruces ở Vizcaya tây-ban-nha và cộng sự, phân tích dữ liệu tái phát và mức urat huyết thanh ở 211 bệnh nhân bệnh gut trong 1 nghiên cứu viễn tưởng. Với bệnh nhân không có tophi ở mức căn bản (trước khi điều trị), điều trị giảm urat huyết thanh sẽ ngưng sau 5 năm. Với những người đã có tophi ở mức căn bản, điều trị giảm urat ngưng 5 năm sau khi bệnh nhân đã hết tophi.
Mức urat huyết thanh sau khi ngưng thuốc sẽ đo 2 lần trong năm đầu, sau đó 1 lần mỗi năm. Tái xuất hiện được định nghĩa là cơn gut cấp tính bộc phát, và được xác nhận sau khi thấy tinh thể monosodium urate monohydrate.
Phân tích gồm 211 bệnh nhân, 52 người có tophi khi bắt đầu điều trị. Thời gian điều trị trung bình giảm urat là 66 tháng, và thời gian theo dõi trung bình sau khi ngưng điều trị là 33.1 tháng.
Thời gian trung điểm (median time) tái xuất hiện là 47 tháng sau khi chấm dứt điều trị, và tỷ số tích tụ tái xuất hiện là 6.6% sau 1 năm, 11.4% sau 2 năm và 20.4% sau 3 năm, và 29.4% sau 4 năm. Tác giả báo cáo không có bệnh nhân nào có mức urat huyết thanh < 7 mg/dL sau khi ngưng điều trị giảm urat bị tái phát cơn gút với sạn urate.
Một phân tích sau nghiên cứu tìm thấy giảm cân và dùng thuốc như losartan (thuốc chẹn thụ thể angiotensin 2:ARB) hay fenofibrate liên quan với giữ mức urat huyết thanh dưới mức 7 mg/dL trong khi theo dõi sau khi ngưng điều trị giảm huyết thanh, và dùng thuốc lợi tiểu liên quan với thất bại giữ mức urat huyết thanh dưới 7 mg/dL (nhóm thiazide tăng mức urat huyết thanh).
Theo bác sĩ Perez-ruiz, điều này gợi ý sau khi đã làm hết tinh thể urat tích tụ, giảm liều thuốc giảm huyết thanh đủ để tránh cơn gút tái xuất hiện. Mục tiêu điều trị để lọai tinh thể vẫn giữ mức urat huyết thanh < 6 mg/dL, nhưng một khi đạt được mục tiêu này, mục tiêu phòng ngừa phải là 6.0 đến 6.9 mg/dL. Một bác sĩ chuyên khoa về bệnh gút bảo tinh thể urat sẽ hòa tan nhanh hơn sau khi giảm mức urat huyết thanh.