Trang chủ » Phổ biến kiến thức » Sử dụng thuốc an toàn » Thuốc đắt tiền chưa hẳn đã tốt

Thuốc đắt tiền chưa hẳn đã tốt


Thuốc rẻ tiền dễ bị bỏ rơi

Điển hình như magiê sulfat (magnesium sulphate) – một chất đơn giản, rẻ tiền, an toàn và rất công hiệu trong điều trị hội chứng tiền sản giật (pre-eclampsia) và sản giật (eclampsia) ở phụ nữ. Khi bị những triệu chứng này, bệnh nhân thường có những cơn co giật (kiểu động kinh) và có thể dẫn đến tử vong nếu không được điều trị kịp thời, đúng lúc. Các triệu chứng kèm theo thường là tăng huyết áp, đi tiểu ra nhiều đạm, nhức đầu dữ dội và mờ mắt. Mặc dù, hội chứng này đã có phác đồ điều trị nhưng hằng năm nó vẫn gây tử vong cho hơn 63.000 sản phụ, gây tử vong cho nhiều thai nhi trong bụng mẹ, và cũng ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của bào thai trong các trường hợp còn lại. Ở các nước Châu Phi (Mozambique, Zimbabwe, Nam Phi), người ta  đã thấy sự vắng mặt và bị lãng quên của magiê sulfat trong thời gian qua.
Lý do rất đơn giản vì magiê sulfat quá rẻ tiền. Các hãng dược  không muốn đăng ký thuốc và các bệnh viện cũng không muốn dùng vì lợi nhuận thu được không đáng kể.

Thuốc đắt tiền thường được ưa chuộng

Một nghiên cứu về điều trị các bệnh tâm thần ở Mỹ được công bố năm 2005 cho thấy, các thuốc thế hệ mới dùng trong điều trị bệnh tâm thần được quảng bá rộng rãi, chiếm ưu thế tuyệt đối trong các đơn thuốc của bác sĩ, nhưng những ưu điểm hoặc tiến bộ về hiệu quả điều trị, cũng như những tác dụng độc hại lại không hơn gì so với thuốc cũ. Điểm khác biệt duy nhất là các thuốc này đắt gấp 10 lần so với thuốc cũ, mang lại doanh thu 10 tỷ đô-la Mỹ/năm cho các hãng dược và chiếm lĩnh đến hơn 90% thị trường.
Qua tập hợp và phân tích số liệu từ những nghiên cứu đã được đăng tải trên các tạp chí y học từ năm 1997 – 2002, Ủy ban về nghiên cứu sức khỏe và chất lượng của Mỹ đã đưa ra kết luận: Các thuốc kháng sinh mới đắt tiền chưa chắc đã cần thiết và tốt hơn thuốc cũ. Giá cả của các thuốc kháng sinh cho trẻ em và người lớn bị các bệnh như viêm tai giữa, viêm xoang, viêm phổi cấp dao động từ 2-113 đô la Mỹ/ngày. Sự khác nhau về giá cả vẫn cho kết quả điều trị như nhau.
Các nghiên cứu còn chỉ ra kết quả điều trị của nhóm dùng kháng sinh cũ (giá 12 đô-la Mỹ) còn cao hơn dùng kháng sinh thế hệ mới (giá 42 đô-la Mỹ).

Trong điều trị viêm xoang: những nghiên cứu lâm sàng từ 1970-1998 cho thấy 69% bệnh nhân tự khỏi và việc điều trị bằng các thuốc kháng sinh mới như azithromycin, clarithromycin hay cefixin vẫn mang lại kết quả tương tự như amoxicillin.

Với bệnh viêm phổi cấp tính: kết quả nghiên cứu lâm sàng cho thấy tính ưu việt của các kháng sinh mới cũng không hơn gì các kháng sinh thế hệ cũ. Tỷ lệ bệnh nhân tái phát, phải vào viện điều trị còn cao hơn so với dùng thuốc kháng sinh cũ.

Một nghiên cứu gần đây tại Viện Brigham and Women’s ở Boston, Mỹ chỉ ra sự không hợp lý của việc lạm dụng loại kháng sinh đắt tiền vancomycin trong hơn 10 năm qua: Kháng sinh này chỉ nên dùng khi có dấu hiệu vi khuẩn nhờn với  kháng sinh cũ hoặc bệnh nhân có biểu hiện dị ứng với các kháng sinh khác. Việc dùng vancomycin như thuốc tiên phong trong các bệnh nhiễm khuẩn không mang lại kết quả điều trị cao mà còn dẫn đến sự nảy sinh của các chủng vi khuẩn kháng lại chính thuốc đó.
Chúng ta cần biết rằng: các hãng dược đưa thuốc mới vào thử nghiệm để đạt mục đích chỉ tiêu thống kê, được cho phép lưu hành bằng cách so sánh chúng với các giả dược (placebo) trong một thời hạn ngắn. Các thử nghiệm này không cho thấy thuốc mới có an toàn và hiệu quả hơn thuốc cũ hay không, cũng như không có kết luận về hậu quả sử dụng thuốc mới trong một thời gian dài.

Một vài suy nghĩ

Với sự phát triển mạnh và xu hướng vị lợi nhuận của các hãng dược đa quốc gia, các bác sĩ cần thường xuyên ý thức rằng: thuốc đắt tiền và mới nhất chưa chắc đã là thuốc tốt nhất. Việc lựa chọn thuốc điều trị phải dựa trên chỉ số an toàn và hiệu quả của thuốc. Nhiều thuốc giá rẻ, dễ sản xuất được chứng minh là có tác dụng chữa bệnh  tốt, ngược lại nhiều thuốc mới, đắt tiền đã không làm được điều đó.

Thuốc rẻ tiền dễ bị bỏ rơi

Điển hình như magiê sulfat (magnesium sulphate) – một chất đơn giản, rẻ tiền, an toàn và rất công hiệu trong điều trị hội chứng tiền sản giật (pre-eclampsia) và sản giật (eclampsia) ở phụ nữ. Khi bị những triệu chứng này, bệnh nhân thường có những cơn co giật (kiểu động kinh) và có thể dẫn đến tử vong nếu không được điều trị kịp thời, đúng lúc. Các triệu chứng kèm theo thường là tăng huyết áp, đi tiểu ra nhiều đạm, nhức đầu dữ dội và mờ mắt. Mặc dù, hội chứng này đã có phác đồ điều trị nhưng hằng năm nó vẫn gây tử vong cho hơn 63.000 sản phụ, gây tử vong cho nhiều thai nhi trong bụng mẹ, và cũng ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của bào thai trong các trường hợp còn lại. Ở các nước Châu Phi (Mozambique, Zimbabwe, Nam Phi), người ta  đã thấy sự vắng mặt và bị lãng quên của magiê sulfat trong thời gian qua.
Lý do rất đơn giản vì magiê sulfat quá rẻ tiền. Các hãng dược  không muốn đăng ký thuốc và các bệnh viện cũng không muốn dùng vì lợi nhuận thu được không đáng kể.

Thuốc đắt tiền thường được ưa chuộng

Một nghiên cứu về điều trị các bệnh tâm thần ở Mỹ được công bố năm 2005 cho thấy, các thuốc thế hệ mới dùng trong điều trị bệnh tâm thần được quảng bá rộng rãi, chiếm ưu thế tuyệt đối trong các đơn thuốc của bác sĩ, nhưng những ưu điểm hoặc tiến bộ về hiệu quả điều trị, cũng như những tác dụng độc hại lại không hơn gì so với thuốc cũ. Điểm khác biệt duy nhất là các thuốc này đắt gấp 10 lần so với thuốc cũ, mang lại doanh thu 10 tỷ đô-la Mỹ/năm cho các hãng dược và chiếm lĩnh đến hơn 90% thị trường.
Qua tập hợp và phân tích số liệu từ những nghiên cứu đã được đăng tải trên các tạp chí y học từ năm 1997 – 2002, Ủy ban về nghiên cứu sức khỏe và chất lượng của Mỹ đã đưa ra kết luận: Các thuốc kháng sinh mới đắt tiền chưa chắc đã cần thiết và tốt hơn thuốc cũ. Giá cả của các thuốc kháng sinh cho trẻ em và người lớn bị các bệnh như viêm tai giữa, viêm xoang, viêm phổi cấp dao động từ 2-113 đô la Mỹ/ngày. Sự khác nhau về giá cả vẫn cho kết quả điều trị như nhau.
Các nghiên cứu còn chỉ ra kết quả điều trị của nhóm dùng kháng sinh cũ (giá 12 đô-la Mỹ) còn cao hơn dùng kháng sinh thế hệ mới (giá 42 đô-la Mỹ).

Trong điều trị viêm xoang: những nghiên cứu lâm sàng từ 1970-1998 cho thấy 69% bệnh nhân tự khỏi và việc điều trị bằng các thuốc kháng sinh mới như azithromycin, clarithromycin hay cefixin vẫn mang lại kết quả tương tự như amoxicillin.
Với bệnh viêm phổi cấp tính: kết quả nghiên cứu lâm sàng cho thấy tính ưu việt của các kháng sinh mới cũng không hơn gì các kháng sinh thế hệ cũ. Tỷ lệ bệnh nhân tái phát, phải vào viện điều trị còn cao hơn so với dùng thuốc kháng sinh cũ.
Một nghiên cứu gần đây tại Viện Brigham and Women’s ở Boston, Mỹ chỉ ra sự không hợp lý của việc lạm dụng loại kháng sinh đắt tiền vancomycin trong hơn 10 năm qua: Kháng sinh này chỉ nên dùng khi có dấu hiệu vi khuẩn nhờn với  kháng sinh cũ hoặc bệnh nhân có biểu hiện dị ứng với các kháng sinh khác. Việc dùng vancomycin như thuốc tiên phong trong các bệnh nhiễm khuẩn không mang lại kết quả điều trị cao mà còn dẫn đến sự nảy sinh của các chủng vi khuẩn kháng lại chính thuốc đó.
Chúng ta cần biết rằng: các hãng dược đưa thuốc mới vào thử nghiệm để đạt mục đích chỉ tiêu thống kê, được cho phép lưu hành bằng cách so sánh chúng với các giả dược (placebo) trong một thời hạn ngắn. Các thử nghiệm này không cho thấy thuốc mới có an toàn và hiệu quả hơn thuốc cũ hay không, cũng như không có kết luận về hậu quả sử dụng thuốc mới trong một thời gian dài.

Một vài suy nghĩ

Với sự phát triển mạnh và xu hướng vị lợi nhuận của các hãng dược đa quốc gia, các bác sĩ cần thường xuyên ý thức rằng: thuốc đắt tiền và mới nhất chưa chắc đã là thuốc tốt nhất. Việc lựa chọn thuốc điều trị phải dựa trên chỉ số an toàn và hiệu quả của thuốc. Nhiều thuốc giá rẻ, dễ sản xuất được chứng minh là có tác dụng chữa bệnh  tốt, ngược lại nhiều thuốc mới, đắt tiền đã không làm được điều đó.

Gửi thảo luận