Đây là loại chảy máu tiêu hóa rất thường gặp mà một trong những biện pháp cấp cứu ban đầu là sử dụng các thuốc cầm máu.
Cơ chế cầm máu này đặc biệt hữu ích khi cơ thể bị các thương tổn ở các mạch máu nhỏ. Vết thương sẽ tự cầm máu trong vài phút mà không cần sử dụng một loại thuốc đặc biệt nào. Tuy vậy, với một số tình huống tổn thương lớn hơn, mạch máu to hơn cần có một số loại thuốc được sử dụng để hỗ trợ cho các quá trình cầm máu, giúp quá trình hình thành cục máu đông nhanh hơn, bền hơn để cầm máu.
Có nhiều loại thuốc cầm máu với cơ chế tác động vào các khâu khác nhau của quá trình đông máu trong cơ thể. Thứ nhất là tác động vào quá trình co mạch có tác dụng làm co các tiểu động mạch. Điển hình là adrenalin và carbazochrome dihydrate (adrenoxyl, adona). Vì thuốc có tác dụng co các tiểu động mạch nên được dùng chủ yếu trong XHTH do loét dạ dày – tá tràng là tốt nhất. Adrenalin thường được sử dụng tại chỗ để tiêm cầm máu ổ loét qua nội soi trong khi carbazochrome dihydrat có thể dùng đường tiêm bắp, tiêm dưới da hoặc đường uống.
Nhóm thuốc thứ hai cũng hay được sử dụng làm tăng quá trình cầm máu, đó là vitamin K. Có hai loại vitamin K thường được sử dụng để cầm máu là vitamin K1 (có nguồn gốc thực vật) và vitamin K2 có nguồn gốc động vật. Vitamin K có vai trò rất quan trọng trong việc tổng hợp các yếu tố đông máu II, VII, IX, X (phức bộ prothrombin) tại gan. Vitamin K có tác dụng chỉ sau 24 giờ trở lên với điều kiện chức năng gan còn tốt, cơ thể bị thiếu vitamin K (ví dụ do tắc mật). Vì vậy, xét về mặt cơ chế, vitamin K nên ưu tiên sử dụng ở bệnh nhân chảy máu đường mật do sỏi, bệnh nhân xuất huyết tiêu hoá cao có tắc mật hoặc có bằng chứng thiếu vitamin K mà chức năng gan còn tốt.
Nhóm thuốc thứ ba giúp cơ thể cầm máu nhờ việc ức chế men plasminogen trở thành plasmin (có hoạt tính tiêu huyết khối). Plasmin là chất có khả năng tiêu fibrin rất mạnh nên làm tan cục máu đông sau 4 – 6 giờ được hình thành. Khi plaminogen bị ức chế, lượng plasmin giảm xuống và kết quả là cục máu đông trên chỗ tổn thương được bảo vệ, nút cầm máu vẫn được tồn tại. Điển hình trong số thuốc nhóm này là hoạt chất tranexamic acide (transamin 250mg) tiêm hoặc uống. Vì vậy, nhóm thuốc này được chỉ định cho tất cả các trường hợp XHTH cao, ở bất cứ vị trí nào.
Một nhóm thuốc khác, tuy không tác động vào khâu nào của quá trình cầm máu nhưng cũng có tác dụng chống chảy máu thông qua việc làm giảm tưới máu các tạng, làm giảm áp lực tĩnh mạch cửa, đó là sandostatin và một số octreotide khác như terlipressin. Khi áp lực dòng máu qua gan, dạ dày, tĩnh mạch cửa giảm xuống sẽ làm giảm chảy máu và giúp hình thành nút cầm máu tốt hơn. Vì thế, sandostatin có hiệu quả tốt nhất trong XHTH cao do giãn vỡ tĩnh mạch thực quản ở bệnh nhân có hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa.
Về nguyên tắc, có thể phối hợp được các loại thuốc cầm máu nói trên trong việc điều trị XHTH cao. Ví dụ như cho thuốc co mạch hoặc transamin với vitamin K vì giai đoạn đầu vitamin K chưa có tác dụng. Thứ hai là việc sử dụng thuốc nào tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể như vị trí, nguyên nhân, mức độ chảy máu cũng như cân nhắc tác dụng phụ của loại thuốc sẽ được dùng cho bệnh nhân. Cuối cùng, cần hết sức lưu ý rằng các thuốc cầm máu chỉ có tác dụng hỗ trợ trong việc điều trị XHTH cao, hiệu quả trên bệnh nhân của các loại thuốc này là rất khó theo dõi. Nên trước một trường hợp bị XHTH cao, các biện pháp tích cực, chủ động như nội soi can thiệp, phẫu thuật cấp cứu và theo dõi chặt chẽ tình trạng bệnh nhân vẫn được ưu tiên hàng đầu.