Trang chủ » Phổ biến kiến thức » Sử dụng thuốc an toàn » Thuốc và sự thay đổi trong điều trị bệnh hen phế quản

Thuốc và sự thay đổi trong điều trị bệnh hen phế quản

Sau isoproterenol, metaproterenol được công bố nǎm 1973, trong thập kỷ tiếp theo, các chất chủ vận beta lần lượt ra đời, mỗi chất lại đặc hiệu hơn với thụ thể beta2.
Trong nhiều nǎm, người ta đã biết atropin có tính chất giãn phế quản, tuy nhiên, nhiều người cho rằng nên tránh dùng các thuốc chống tiết muscarin trong điều trị hen. Ipratropium bromid được công bố nǎm 1986 và đường dùng ở dạng xịt, là chất chống tiết acetylcholin chủ yếu được dùng để làm giãn phế quản. Nǎm 1994, một chế phẩm phối hợp chứa ipratropium bromid và chất chủ vận beta2 albuterol được đưa ra thị trường.
Từ khi ra đời nǎm 1940, theophyllin là thuốc giãn phế quản lý tưởng cho nhiều bệnh phổi tắc nghẽn phế quản. Tuy nhiên, do độc tính của thuốc và quá trình bệnh đã được hiểu rõ hơn, liệu pháp theophyllin dần ít được dùng trong điều trị hen. Glucocorticoid hiện được coi là liệu pháp chủ yếu trong điều trị hen.
Mặc dù glucocorticoid đã trở thành trọng tâm mới, các thuốc giãn phế quản truyền thống vẫn rất cần thiết đối với nhiều bệnh nhân. Vai trò của theophyllin trong điều trị hen vẫn còn đang tranh cãi. Nói chung, theophyllin được khuyên dùng cho bệnh nhân bị bệnh co thắt phế quản mạn tính cần giãn phế quản kéo dài, bệnh nhân có triệu chứng về đêm hoặc bệnh nhân phải vào viện để điều trị hen.
Các phản ứng có hại: Tác dụng phụ của chất chủ vận beta2 thường nhỏ. Khi hấp thu thuốc từ phổi vào máu tǎng, tác dụng toàn thân trở nên rõ rệt hơn. Điều này cũng đúng khi dùng chất chủ vận beta2 đường uống hoặc tiêm truyền. Tác dụng phụ tim mạch có thể nặng và bao gồm đánh trống ngực, nhịp nhanh, cao huyết áp và loạn nhịp, có liên quan đến kích thích beta1. Tác dụng phụ hô hấp tại chỗ bao gồm ho, thở khò khè, rối loạn nhịp thở, co thắt phế quản, khô hoặc ngứa họng và viêm thanh quản. Salmeterol có tỷ lệ tác dụng phụ hô hấp (như nhiễm trùng đường hô hấp trên, viêm mũi hầu) cao hơn các chất chủ vận beta2 khác. Chất chủ vận beta2 cũng gây giãn mạch, dẫn đến chóng mặt, đau đầu, bốc hỏa và ra mồ hôi. Tác dụng phụ trên hệ thần kinh trung ương gồm lảo đảo, cǎng thẳng, kích động và mất ngủ. Những tác dụng khác bao gồm cảm giác mùi vị bất thường hoặc khó chịu, chán ǎn, hạ kali huyết, toan máu do acid lactic và tân tạo đường.
Các dẫn xuất methylxanthin, đặc biệt là theophyllin, có phạm vi trị liệu rất hẹp.
Đặc biệt, thuốc có thể gây nhiễm độc nặng như co giật, thiếu hụt thần kinh vĩnh viễn và tử vong có thể xảy ra trước khi xuất hiện các tác dụng phụ nhẹ; đây là lý do khiến cần phải theo dõi nồng độ huyết thanh. Các tác dụng phụ nghiêm trọng khác bao gồm nhịp tim nhanh, loạn nhịp, nhịp thở nhanh và rối nhiễu hành vi ở trẻ em do kích thích thần kinh trung ương. Những tác dụng phụ nhẹ bao gồm buồn nôn và nôn, chán ǎn, ỉa chảy, bồn chồn, ngứa, mất ngủ và đau đầu. Tình trạng lợi tiểu hay xảy ra khi bắt đầu liệu pháp nhưng thường dung nạp được. Giãn cơ bàng quang gây đái khó ở nam giới bị phì đại tuyến tiền liệt. Các thay đổi chuyển hóa gồm tǎng đường huyết và hạ kali huyết.
Hai thuốc chống tiết acetylcholin hay được sử dụng nhất để giãn phế quản là atropin và ipatropium bromid. Khô miệng là tác dụng phụ nổi bật nhất và vì sinh khả dụng thấp nên nói chung thuốc ít có tác dụng toàn thân. Atropin gây cả tác dụng phụ tại chỗ và toàn thân. Thuốc gây khô dịch tiết, nhìn lóa, kích thích tim và kích thích thần kinh trung ương.

Gửi thảo luận