Trước hết trong lĩnh vực y, có một thành tựu mới được ghi nhận. Đó là xác định xét nghiệm HbA1C thành tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) với mức ≥6,5% (xét nghiệm HbA1C trước đây chỉ dùng làm chỉ số theo dõi điều trị ĐTĐ). Đây có thể xem là thành tựu đặc biệt vì bệnh ĐTĐ đang gia tăng một cách đáng báo động và trở thành thách thức lớn của sức khỏe toàn cầu.
Dựa vào đo đường huyết, ta chỉ biết được tình trạng có bị ĐTĐ hay không ngay vào thời điểm lấy máu xét nghiệm. Rất có thể trước đó người bệnh bị tăng đường huyết một cách bất thường nhưng không biết được. Vì vậy, để theo dõi tình trạng đường huyết trong thời gian dài 3 tháng hoặc theo dõi việc dùng thuốc trị ĐTĐ có hiệu quả hay không, người ta dùng chỉ số xét nghiệm HbA1C.
Đo HbA1C có nghĩa là đo tỷ lệ hemoglobin (viết tắt Hb) là chất có màu đỏ (huyết sắc tố) có trong hồng cầu đã được gắn với đường glucose. Ta cần biết glucose có trong máu không chỉ ở trạng thái tự do mà còn ở trạng thái liên kết (gắn) với hemoglobin của hồng cầu. Vì đời sống của tế bào hồng cầu vào khoảng 120 ngày, cho nên đo HbA1C tức đo hemoglobin có gắn đường glucose ta biết được tình trạng glucose có trong máu (thực chất gắn với hồng cầu), tăng giảm như thế nào trong thời gian đến 3-4 tháng. Đối với việc dùng thuốc trị ĐTĐ cũng vậy, đo HbA1C ta biết được hiệu quả của thuốc làm giảm glucose như thế nào trong suốt 3 tháng qua.
Thuốc tăng cường hoặc bắt chước incretin
Trong lĩnh vực dược, có những thuốc mới đã ra đời được dùng trị ĐTĐ týp 2. Đây có thể xem sự bổ sung lý thú cho thành tựu về học y đã kể trên. Một thuốc mới trị ĐTĐ týp 2 có tên liraglutid (victoza) và nằm trong nhóm thuốc mới có tên thuốc tăng cường hoặc bắt chước incretin.
Hiện nay, người ta phát hiện sự giảm khả năng tiết insulin của các tế bào bêta còn bị chi phối bởi các hormon peptid có tên incretin do niêm mạc đường tiêu hóa tiết ra khi thức ăn thức uống đi qua dạ dày – ruột. Bằng các incretin được tiết ra, trong đó có GLP-1 (viết tắt của Glucagon-Like Peptid-1, tức peptid-1 giống glucagon) là hormon có tác dụng mạnh nhất, cơ thể tạo sự kích thích tế bào bêta tiết ra insulin để hạ hàm lượng glucose trong máu xuống đến mức cần thiết. Biết được cơ chế của sự giảm tiết insulin do các incretin, đặc biệt do GLP-1 gây ra, người ta phát minh ra thuốc mới trị ĐTĐ týp 2 theo cơ chế gọi là thuốc tăng cường hoặc bắt chước incretin. Exenatid là thuốc tổng hợp đầu tiên thuộc nhóm này được đưa ra thị trường vào năm 2005 để điều trị ĐTĐ týp 2, còn được gọi là chất bắt chước GLP-1, là hợp chất thiên nhiên và là một polypeptide cấu tạo bởi 39 acid amin. Thuốc có cấu trúc tương tự 53% so với cấu trúc của GLP-1. Đây được xem là phát minh xanh vì exenatid được tìm ra nhờ sự phát hiện hợp chất exendin-4 có trong nước bọt của kỳ nhông có tên Gila monster (tên khoa học Heloderma suspectum) sống ở một số bang ở miền Tây Nam nước Mỹ.
Thành tựu xanh được tiếp tục vì thuốc thứ hai của nhóm bắt chước incretin là liraglutid đã ra đời. Liraglutid có cấu trúc tương tự đến 97% cấu trúc của GLP-1. Cũng giống như exenatid, liraglutid được bào chế dưới dạng tiêm dưới da. Thời gian bán thải của liraglutid vào khoảng 13 giờ trong khi thời gian bán thải của exenatid vào khoảng 2 – 4 giờ. Tác dụng phụ của thuốc: buồn nôn, ói, tiêu chảy, khó tiêu, táo bón. Thuốc có thể dùng phối hợp với các lọai trị ĐTĐ týp 2 khác tùy theo chẩn đoán và chỉ định thuốc của bác sĩ.
Thế giới vui hẳn lên vì thành tựu xanh mở rộng sang lĩnh vực tim mạch. Mới đây, nhờ quan sát sự tiêu hóa thức ăn và chuyển hóa của con trăn mà người ta có triển vọng phát minh dược phẩm kết hợp ba loại axit béo trị bệnh tim cho người.