Tiến sĩ Marie Holmqvist, thuộc Viện Karolinska ở Stockholm (Thụy Điển), người chủ trì cuộc nghiên cứu, cho biết, nghiên cứu không chứng minh được viêm khớp dạng thấp trực tiếp làm tăng khả năng xảy ra tình trạng huyết khối tĩnh mạch. Tuy nhiên, nó cung cấp các bằng chứng mạnh mẽ rằng có mối liên quan giữa viêm khớp dạng thấp với tình trạng huyết khối tĩnh mạch, do các yếu tố liên quan đến bệnh viêm khớp dạng thấp như triệu chứng viêm, phương pháp điều trị và các tác nhân khác.
Theo giải thích của các nhà nghiên cứu, viêm khớp dạng thấp là căn bệnh hoàn toàn khác với chứng viêm khớp xương mãn tính liên quan đến tiến trình lão hóa. Viêm khớp dạng thấp thường bắt đầu trong độ tuổi từ 25 – 55, gây nên tình trạng viêm, sưng, đau, cứng ở các khớp và làm giảm chức năng khớp.
Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy một mối liên quan giữa viêm khớp dạng thấp với chứng huyết khối tĩnh mạch sâu – một cục máu đông lưu trú ở các tĩnh mạch ở chân hoặc đùi. Nếu cục máu đông di chuyển đến phổi, nó được gọi là chứng thuyên tắc phổi. Các cục máu đông này có thể dẫn đến nhồi máu cơ tim và đột quỵ.
Trong nghiên cứu mới, các nhà khoa học đã tìm cách để hiểu rõ hơn nguy cơ và xác định xem liệu nguy cơ này có tăng lên khi bệnh nhân phải nhập viện. Họ đã theo dõi hơn 45.000 người ở Thụy Điển bị viêm khớp dạng thấp và những người cùng độ tuổi không bị bệnh, trong khoảng thời gian từ 1997 đến năm 2010.
Kết quả cho thấy, trong số gần 38.000 bệnh nhân thường xuyên đi khám bác sĩ về bệnh viêm khớp dạng thấp, 2,2% được chẩn đoán huyết khối tĩnh mạch so với 1,1% ở những người không mắc bệnh.
Tiến sĩ Daniel Solomon, Trưởng khoa học lâm sàng về xương khớp tại Bệnh viện Brigham và Phụ nữ ở Boston (Mỹ), cho biết các yếu tố khác làm tăng nguy cơ huyết khối có thể bao gồm gen di truyền, tiếp xúc với khói thuốc lá và việc ít hoạt động ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp từ mức trung bình đến nặng.
Tiến sĩ Solomon cho rằng, phát hiện này cần được bổ sung vào kiến thức hiện có về nguy cơ bị huyết khối ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp. Cùng với các nghiên cứu khác, nó cung cấp thêm nhiều kiến thức về các vấn đề mạch máu như tình trạng tắc nghẽn mạch máu ở những bệnh nhân này.