Tiên địa hoàng: là rễ sinh địa tươi. Tiên địa hoàng có vỏ ngoài mỏng, màu vàng, đỏ cam, giống như củ cà rốt. Theo YHCT, tiên địa hoàng có vị ngọt, hơi đắng, tính hàn, quy vào các kinh tâm, can, thận. Dùng tốt cho các bệnh mang tính nhiệt như sốt cao, đôi khi phát cuồng, mê sảng… hoặc các chứng bệnh tiêu khát, ban chẩn, táo trệ, xuất huyết… Tiên địa hoàng thái mỏng, nấu cháo ăn, hoặc giã nát lấy dịch tươi, uống, hoặc sắc lấy nước uống, ngày 50 – 100ml, uống 2 lần trước bữa ăn.
![]() Củ sinh địa đã qua chế biến cho vị thuốc thục địa.
|
Thục địa: là sinh địa qua chưng hoặc nấu với phụ liệu là gừng tươi, rượu, hoặc gừng tươi, rượu và sa nhân. Theo YHCT, thục địa có vị ngọt, tính ấm, quy kinh tâm, can, thận. Có tác dụng tư âm, dưỡng huyết, dùng trong các trường hợp thiếu máu, da xanh xao, gầy yếu… hoặc khi cơ thể khô háo do âm hư, hoặc chức năng thận âm kém: thục địa 16g, sơn thù du 8g, mẫu đơn bì, trạch tả, phục linh, hoài sơn, mỗi vị 6g sắc uống để trị đau đầu, ù tai, lưng, gối đau mỏi, di mộng tinh, ra nhiều mồ hôi… Hoặc từ phương thuốc này, thêm quế nhục, phụ tử (chế), mỗi vị 3g để trị các chứng dương hư với biểu hiện đau lưng, liệt dương, tảo tiết, tiểu tiện lượng nhiều, hai chân luôn có cảm giác lạnh lẽo.
