Dưới đây chỉ xin giới thiệu vị thuốc trị liệu được sử dụng là cành, lá, vỏ, rễ, nhựa.
Cành đào (đào chi): là vị thuốc được Hải Thượng Lãn Ông ghi trong Lĩnh Nam bản thảo, quyển hạ “Cành đào có vị đắng, tính bình, dùng trị trẻ em ra mồ hôi trộm, lao phổi ho ra máu, đau vùng tim, các vết mẩn sưng do côn trùng đốt. Liều dùng uống trong 40 – 80g dạng thuốc sắc; dùng ngoài nấu nước rửa”.
Vỏ thân, vỏ trắng của đào (đào thụ bì): vỏ thân đào có vị đắng, tình bình, không độc; dùng trị thủy thũng, sán khí phúc thống, phế nhiệt suyễn muộn, tràng nhạc, mụn nhọt sưng lở, bỏng rát. Uống trong, dùng 12 – 20g, dạng thuốc sắc; dùng ngoài giã nát đắp hoặc nấu nước rửa, nước súc miệng. Chữa phù thũng: vỏ đào ngâm rượu uống.
Lá đào (đào diệp): lá đào có vị đắng, tính bình, có tác dụng khử phong thấp, thanh nhiệt, sát khuẩn. Được dùng trị cảm mạo phát sốt, đau đầu, phong tê, sốt rét, đại tiện không thông, loét dạ dày, mẩn ngứa, lở chân. Dùng trong, sắc nước uống; dùng ngoài nấu nước rửa hoặc giã đắp.
Lá đào là vị thuốc thường dùng trong dân gian; dùng vỏ tươi xát tắm trị ghẻ lở, mẩn ngứa, chốc đầu, dùng ngâm chữa viêm kẽ chân. Cũng dùng phối hợp với lá dâu tằm giã đắp tại chỗ chữa vết thương, vết đứt.
Chữa đại tiện không thông: dùng lá đào một nắm to, giã vắt lấy nước cốt uống.
Chữa sốt rét: lá đào tươi 70g, nấu nước uống ngày 1 lần, uống liên tiếp trong 5 ngày.
Chữa mày đay: lá đào 500g, thái nhỏ, ngâm vào 500ml cồn hay rượu ngon trong vòng 2 ngày, lọc bỏ bã, lấy nước bôi ngày 2-3 lần.
Chữa chốc lở, rôm sẩy, sưng âm hộ: giã lá đào tươi xoa, xát.
Lưu ý, trong lá đào có acid cyanhydric có thể gây ngộ độc.
Rễ đào (đào căn): rễ đào có vị đắng, tính bình, không độc. Dùng trị hoàng đản, thổ huyết, nục huyết, kinh bế, ung thũng và trĩ. Uống trong, dùng 80 – 120g, sắc nước; dùng ngoài nấu nước rửa.