Vừa là cây, vừa là con
ĐTHT là một dạng cộng sinh giữa một loài nấm túi với sâu non của một loài côn trùng thuộc chi Hepialus. Vào mùa đông nấm bắt đầu ký sinh vào sâu non và làm chết sâu non vì ăn hết chất dinh dưỡng của chúng. Mùa hè ấm áp nấm bắt đầu mọc ra khỏi sâu như một ngọn cỏ và vươn lên khỏi mặt đất. Đầu của ngọn nấm là một thể đệm hình trụ thuôn nhọn. Vị thuốc Đông y này vì “mùa đông trông tựa con bọ, mùa hè trông tựa cọng cỏ” mà có tên là “Đông trùng hạ thảo”. Vị thuốc này có chứa các thành phần bổ dưỡng như protein, chất béo, chất thô dạng xơ, carbon hydrate, nhiều loại vitamin, sellar, cordycepose, cordicepic acid, amino acid và các nguyên tố vi lượng cần thiết cho cơ thể như sắt (Fe), phốt pho (P), canxi (Ca), kẽm (Zn), mangan (Mn), sêlen (Se)… ĐTHT chứa 25 – 32% protid khi thủy phân cho tới hàng chục acid amin khác nhau như aspartic acid, glutamic acid, serine, histidine, glucine, threonine, arginine, tyrosine, alanine, triptophane, methionine, valine, phenylananine, isoleucine, leucine, omithine, lysine, chất béo; D-manitol; các vitamin… Cái sinh vật “vừa cây vừa con” này được Đông y coi là một loại thuốc quý, vì có nhiều hoạt chất dùng để chữa các loại bệnh nan y.

Coi chừng “đông trùng hạ thảo” giả
Vì là vị thuốc quý hiếm nên trên thị trường xuất hiện nhiều loại ĐTHT giả. Hàng giả thường được chế bằng thân củ của địa tàm và thảo thạch. ĐTHT giả có cạnh gờ hơi cong và số đốt là 3 – 15, bên ngoài có màu vàng nhạt, dài độ 2 – 3cm, giòn hơn so với thông thường, khi cắt ra thì có màu trắng. Một số loại ĐTHT giả do Trung Quốc sản xuất được làm từ bột ngô, bột mạch hay thạch cao… Chúng được sản xuất bằng cách gia công ép màng nên bên ngoài có màu trắng ngà, hình sâu non nhẵn bóng, rõ các vằn khía, mặt cắt có màu trắng nhạt. Cầm thấy nặng, không nhẹ bông như thật, khi nhai lâu thì dính răng. Hàng giả thì sâu non không có chân, vị ngọt, dính.
Tác dụng của Đông trùng hạ thảo
Trên lâm sàng, các nhà y học cổ truyền Trung Quốc đã nghiên cứu dùng ĐTHT điều trị và hỗ trợ điều trị thành công khá nhiều bệnh như rối loạn lipid máu, viêm phế quản mạn tính và hen phế quản, viêm thận mạn tính và suy thận, rối loạn nhịp tim, tăng huyết áp, viêm mũi dị ứng, viêm gan B mạn tính, ung thư phổi (có tác dụng hỗ trợ) và thiểu năng sinh dục. Người ta cũng đã dùng ĐTHT điều trị cho các bệnh nhân bị liệt dương đạt kết quả khá tốt, có khả năng cải thiện đời sống tình dục trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua tác dụng nâng đỡ và bồi dưỡng cơ thể. Điều này đã được y học cổ truyền biết đến từ rất sớm. Theo các sách cổ, ĐTHT vị ngọt, tính ấm, vào hai đường kinh thận và phế, có công năng dưỡng phế, bổ thận, ích tinh, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như phế hư khái suyễn, thận suy dương nuy (liệt dương), di tinh, lưng gối mỏi đau.
Mấy năm gần đây, các nhà y học nghiên cứu phát hiện ĐTHT có tác dụng ức chế trực khuẩn lao rất rõ rệt, có thể phòng ngừa, chữa trị các tổn thương thận do dược phẩm, nâng cao chức năng miễn dịch của tế bào có công hiệu điều trị nhất định đối với bệnh nhân viêm gan B, ngăn chặn xơ gan. Ngoài ra, kết quả thực nghiệm của các nhà khoa học Nhật Bản còn cho thấy, nó có tác dụng thúc đẩy tế bào lá lạch nội tiết ra insulin và nó chỉ khởi động tác dụng khi trị số đường máu vượt quá ngưỡng bình thường.