Mục tiêu điều trị là cải thiện các rối loạn bệnh lý làm cản trở sinh hoạt hàng ngày, giữ cho bệnh nhân duy trì được hoạt động càng lâu càng tốt, đồng thời hạn chế tối đa các biến chứng bệnh.
Liệu pháp điều trị bệnh Parkinson có hiệu quả nhất là dùng levodopa kết hợp với chất ức chế decarboxylase ngoại biên (sinemet, madopar, atamet). Một số thuốc khác tác động tại synape dopaminergic cũng hữu ích, đặc biệt khi phối hợp với levodopa.
Hiện nay, ở Việt Nam, dùng thuốc levodopa vẫn được coi là phương pháp điều trị như tiêu chuẩn vàng trong điều trị bệnh Parkinson. Tuy nhiên, việc dùng thuốc dù đều đặn và đúng chỉ định của bác sĩ cũng chỉ có hiệu quả trong khoảng 10 năm đầu. Sau vài năm, hiệu quả của thuốc sẽ kém đi và các triệu chứng trở nên khó kiểm soát. Mặt khác, thuốc cũng có thể gây một số tác dụng phụ như ảo giác, loạn động, buồn nôn, tụt huyết áp tư thế, an thần và mất ngủ.
Một số thuốc thuộc nhóm đồng vận dopamin, tác dụng kích thích trực tiếp thụ thể dopamin nhưng hiệu quả giảm triệu chứng không bằng levodopa.
Piribedil là thuốc đồng vận dopamin, có tác dụng kích thích thụ thể dopamin D2 hậu synape của thể vân. Thuốc được chỉ định điều trị bệnh Parkinson giai đoạn sớm đơn trị liệu hoặc dùng phối hợp với levodopa và các thuốc khác.
Thuốc thuộc nhóm ức chế COMT: là chất ức chế men Catechol O-methyl transferase (COMT) tác dụng làm tăng tính khả dụng sinh học của levodopa và kéo dài thời gian bán hủy của nó. Thuốc cho phép giảm liều levodopa, vì vậy, thuốc không có hiệu quả nếu không có levodopa. Tuy nhiên, nhóm thuốc này có biến chứng tiêu chảy, rối loạn chức năng gan. Cần kiểm tra men gan 2 tuần/lần.
Nhóm thuốc kháng cholinergic đặc biệt hữu hiệu với thể bệnh run trong Parkinson. Nói chung, nhóm thuốc này không nên dùng cho người già, nhất là các bệnh nhân bị rối loạn trí nhớ, u lành tiền liệt tuyến, tăng nhãn áp.