Nhưng chứng tắc nghẽn động mạch, trái với điều mọi người vẫn tưởng, không phải là vấn đề „của anh thợ nước”. Ở những người được coi là bệnh mạch vành ổn định, những tảng mỡ tích tụ lại tuy có cản trở sự lưu thông máu trong các động mạch thậm chí đến 80 phần trăm, mặc dù vậy hiện tượng này không dẫn đến nhồi máu cơ tim. Chỉ duy nhất khi họ phải làm một việc gì đó cố sức thì họ cảm thấy khó thở và đau vùng xương ức. Có đến 70 phần trăm các trường hợp nhồi máu cơ tim xảy ra ở những người mà động mạch bị thu hẹp ở mức chỉ cản trở lưu thông máu từ 20 đến 40 phần trăm!
Các mảng xơ vữa nói chung phát triển ở „ven bờ” động mạch chứ không phải ở giữa động mạch. Máu thậm chí trong suốt nhiều năm vẫn có thể lưu thông „thoải mái”. Quá trình này chỉ bị trục trặc khi mảng xơ vữa bắt đầu hình thành ở giữa động mạch dẫn đến hiện tượng làm động mạch hẹp lại. Người bệnh khi đó cảm thấy rất khó chịu. Nhưng các cơn đau chỉ xuất hiện do hậu quả của sự ức chế tâm lý hay khi phải làm việc gì cố sức khiến các mạch máu vốn bị thu hẹp phải tải một lượng máu nhiều hơn hẳn bình thường. Khi đó xảy ra hiện tượng ngạt thở, tức lồng ngực. Đôi khi mảng xơ vữa phát triển lan rộng tới mức chắn hoàn toàn đường lưu thông máu, nhưng ngay cả trong trường hợp đó nó cũng chỉ là nguyên nhân nhồi máu cơ tim của 15 phần trăm các ca nhồi máu.
Phần lớn các trường hợp nhồi máu cơ tim xảy ra là do bị vỡ lớp tế bào sợi mũ của mảng xơ vữa. Khi đó các cục máu đông được tạo ra chủ yếu từ các mạch máu, giống như những hạt ngô khi rang nở tung ra, làm cho lưu thông trong mạch máu thu hẹp lại hoặc căn cản hoàn toàn các động mạch vành. Nguyên nhân chủ yếu là tình trạng viêm nhiễm tại các động mạch. Tình trạng đó dẫn đến tình trạng các mảng xơ vữa tích tụ lâu ngày tại các thành mạch trở nên dễ vỡ. Chứng tắc nghẽ động mạch trước hết là quá trình viêm nhiễm – giống như trường hợp vết thương bị nhiễm trùng, nó sưng lên và tấy đỏ. Tương tự như vậy là diễn biến trong tất cả các động mạch – cả động mạch tim lẫn động mạch não, và các động mạch chi dưới.
Quá trình này dựa trên việc các phân tử của cái gọi là cholesteron xấu (LDL) tập trung và dày lên ở màng trong động mạch. Khi chúng nhiều quá mức, một phần đọng lại ở đó và chịu sự ôxy hóa (giống như bơ bị cứng lại). Hình như cơ thể coi chúng như một nguy cơ nên phái các đại thực bào, tức là các tế bào „háu ăn” của hệ đề kháng để chúng tiêu diệt các phân tử cholesteron xấu nói trên. Các đại thực bào được no nê cholesteron sau đó lại biến thành cái gọi là những tế bào dạng bọt và kết hợp với các limphocyt T tạo ra các vết mỡ – tiền thân của mảng xơ vữa động mạch.
Để giữ cho thành động mạch được phẳng phiu, trơn tru, các cơ thẳng tạo ra phía trên một lớp che phủ – giống như cái mũ con con làm dày thêm lớp màng và ngăn lớp che phủ đó với máu. Tiếp đó các tế bào dạng bọt tiết ra một hợp chất làm yếu đi lớp che phủ này. Tình trạng mảng xơ vữa bị vỡ diễn ra khi các tế bào của các cơ thẳng không đủ khả năng sửa chữa những hỏng hóc phát sinh trong mảng xơ vữa. Thường thì các mảng xơ vữa động mạch lớn được phủ một lớp mỏng nhưng lại chứa đầy cholesteron và các hợp chất có lợi cho việc tụ máu, vỡ ra. Một số lượng lớn các đại thực bào chui vào các mảng này. Nhưng các tế bào này chết dần khi chúng bị no nê chất béo, song lại giải phóng các hợp chất độc hại làm vỡ các mảng xơ vữa động mạch. Chưa kể là chúng cũng bị các hợp chất truyền tín hiệu giữa các tế bào thần kinh trong quá trình viêm nhiễm làm cho yếu đi.
Cho đến nay người ta vẫn chưa biết được nguyên nhân của quá trình này, mà mới chỉ đặt ra nghi vấn: đó là phản ứng của hệ đề kháng trước những tổn thương đã hình thành bên trong và sự tổn thương của các động mạch do các đám mỡ bị tích tụ quá lớn, do huyết áp cao hoặc do tác động của các hợp chất có nguồn gốc từ việc hút thuốc. Thậm chí người ta còn nghi ngờ rằng các loại vi trùng, chẳng hạn như Chlamydia pneumonia, cũng có „đóng góp” tích cực. Hiện tại vẫn chưa tìm ra phương pháp để nghiên cứu xem trong cơ thể của ai những mảng xơ vữa không ổn định và có thể vỡ (một phần có thể thông qua siêu âm). Nếu tìm ra được phương thức này thì đó sẽ là phát minh quan trọng trong ngành tim mạch. Hiện tại có điều đáng mừng là việc nghiên cứu xem bệnh mạch vành phát triển như thế nào càng ngày càng được nghiên cứu chính xác hơn.
Cho đến cách đây không lâu, các chuyên gia tim mạch chỉ có thể áp dụng phương pháp gọi là coronarography với đòi hỏi tiên quyết là người bệnh phải nằm bệnh viện. Phương pháp này dựa trên cơ sở đưa qua động mạch đùi một ống nhỏ vào các mạch máu dẫn lên tim và sử dụng dung dịch tương phản dưới tác động của tia rentgen sẽ chỉ rõ ở những động mạch vành nào đã hình thành sự thu hẹp nguy hiểm ngăn cản đường đi của máu lên cơ tim. Thế hệ máy chụp cắt lớp mới có độ phân giải cao đến mức các chuyên gia có thể nhìn rõ không chỉ các động mạch chủ của người bệnh mà còn nhìn thấy cả những mạch nhỏ li ti đang dẫn máu nuôi tim.
Việc phát minh ra máy chụp cắt lớp tim là một cuộc cách mạng trong kỹ thuật chẩn đoán bệnh không cần can thiệp sâu. Thiết bị này trong vòng chưa đầy một giây đồng hồ có thể đưa ra hình ảnh cơ tim đang vận động, thậm chí có thể „giữ” nó lại trong trạng thái đang hoạt động. Trong vòng 0,37 giây nó có thể „cắt” trên hình ảnh cơ quan của bệnh nhân thành 64 lát có độ dày là khoảng 0,4 mm và sau 10 giây tạo ra trên màn hình một bức tranh không gian ba chiều về tim rất rõ ràng. Hình ảnh này chính xác đến mức các bác sĩ có thể đọc được trên màn hình xem các động mạch và thành cơ tim đang ở trong tình trạng như thế nào thậm chí ở những bệnh nhân đang khỏe mạnh và không có bất cứ triệu chứng đáng lo ngại nào.
Loại máy này hầu như là yếu tố quan trọng góp phần cứu sống người nhạc công huyền thoại 57 tuổi tên là David Bowi. Trong một buổi hòa nhạc tại Đức ông đã bị đưa đến bệnh viện vì đau dây thần kinh ở bả vai bên trái. Sau khi khám, ông lập tức được phẫu thuật thông động mạch vành không có sự can thiệp của dao kéo – bởi ông có nguy cơ nhồi máu phạm vi rộng. Tương tự như vậy, một nhà doanh nghiệp 48 tuổi được khám tại Viện quân y Varsava thỉnh thoảng cảm thấy đau nhẹ ở lồng ngực. Các cố gắng chụp X-quang không chỉ ra được bất cứ triệu chứng đáng lo ngại nào, cả thiết bị chuyên nghe nhịp tim cũng vậy. Mãi đến khi dùng máy chụp cắt lớp thế hệ mới các chuyên gia phát hiện ra đoạn động mạch vành bên trái đã bị hẹp lại đến 80 phần trăm và bất cứ lúc nào cũng có thể dẫn đến nhồi máu cơ tim. Nhóm bác sĩ đã lập tức tiến hành thông mạch không qua phẫu thuật dao kéo.
Máy chụp cắt lớp có màn hình vi tính kết hợp với siêu âm hình ảnh cho phép xác định ở những người sau nhồi máu cơ tim nhằm xác định, loại phẫu thuật nào cần tiến hành, phẫu thuật bắc cầu hay thông mạch không cần sự can thiệp của dao kéo. Các bác sĩ cũng có thể chọn các loại dược phẩm tốt nhất cho bệnh nhân, bởi vì máy tăng âm để nghe nhịp tim thế hệ mới (MRI) đã cho thấy việc bệnh nhân sử dụng các loại thuốc statin đúng liều quả thật làm giảm mức độ tích tụ ở động mạch các mảng mỡ gây tắc nghẽn mạch. Thiết bị soi chụp cũng cho thấy rõ hình ảnh cơ tim đã phải cố gắng như thế nào để bơm máu đi và thành mạch, các ngăn tim và van tim đang ở trong tình trạng như thế nào.
Theo TS Nguyễn Chí Thuật
Tri Thức Trẻ
|