Cây bụi leo bằng thân quấn. Cành lúc non hình bốn cạnh về sau hình trụ, phình to ở những đốt. Lá mọc đối xứng, hình bầu dục, mặt trên nhẵn bóng, mặt dưới rất nhạt, lá kèm hình sợi. Cụm hoa là một xim phân đôi mọc ở kề lá hoặc đầu cành, gồm những đầu tròn mang hoa màu trắng hoặc trắng vàng, trang họp hình ống. Quả nang, chứa nhiều hạt rất nhỏ. Toàn cây có lông mịn. Mùi hoa quả có vào tháng 5 – 7. Cây dạ cẩm dài 1 – 2m.
Dạ cẩm có hai loại: có loại thân tím và thân trắng, có lông và không có lông. Loại thân tím có lông được dùng phổ biến hơn, cây mọc hoang ở vùng rừng núi, nương rẫy, ven đường chân núi đá vôi, cây dạ cẩm có nhiều ở tỉnh phía Tây Bắc, ngay các tỉnh miền Trung ở vùng đồi núi cũng có nhiều.
Dạ cẩm dùng toàn cây, trong dạ cẩm có chứa nhiều chất tanin, ancaloit, anthiraglucozit, saponin.
Dạ cẩm thường dùng phần từ mặt đất lên ngọn, lá non, thu hái quanh năm, thu hái về đang tươi chặt nhỏ phơi khô, hoặc sấy dòn, thơm như chè uống nước.
Kinh nghiệm dân gian dùng dạ cẩm làm thuốc chữa loét lưỡi, loét miệng mỗi lần uống cho 1 – 2 thìa canh bột dạ cẩm hãm nước sôi uống 1 – 2 lần hoặc cho vào ấm sắc hãm từ 12 – 20g uống thường xuyên trong ngày.
Từ những năm 60, các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng từ kinh nghiệm trong nhân dân, ngành Dược Nhà nước đã nấu thành cao dạ cẩm với mật ong đóng thành chai 300ml bán rộng trên thị trường ở các tỉnh phía Bắc cho bệnh nhân đau dạ dày uống có tác dụng rất tốt, thời ấy dạ cẩm được xem như một dược phẩm quý với bệnh nhân đau dạ dày tá tràng.
Vừa qua, tại Quy Nhơn bệnh nhân Võ Hồng K. 60 tuổi, thường xuyên lở loét miệng điều trị nhiều thuốc tân dược ngoại uống, hoặc bôi… vẫn không khỏi hẳn còn uống, còn bôi có giảm tí chút, ngừng thuốc lại tái phát. Bệnh nhân K đã kiên trì sắc nước cây dạ cẩm như uống nước trà, sau 2 – 3 tháng thấy giảm lở loét ăn uống trở nên bình thường.
Trong dạ cẩm có tác dụng làm giảm đau, giảm sự tăng của axit dạ dày (Acide Chlohydric – HCL) nhờ cơ chế này của cao dạ cẩm rất tốt trong điều trị đau dạ dày tá tràng thể đa toan, sẽ làm bớt ợ chua, nóng rát vùng thượng vị, bệnh nhân có cảm giác dễ chịu khoan khoái, nhẹ bụng, sau uống nước sắc dạ cẩm hoặc cao dạ cẩm.
Có thể phối hợp bột thơm dạ cẩm với mật ong hoặc với một ít bột cam thảo để uống. Ngày dùng bột dạ cẩm 20 – 40g.
Theo chúng tôi, nhiều bệnh nhân viêm, lở loét lưỡi, miệng thường xuyên hoặc từng đợt thường dễ nhầm với ec-pec niêm mạc khi chưa có chẩn đoán chuyên khoa, nhiều bệnh nhân nghe theo quảng cáo thuốc “mì ăn liền” vội mua dùng đã có rất nhiều phản ứng phụ có hại. Bước đầu, có thể nên dùng dạ cẩm rất có lợi vì không có tác dụng xấu, đối với trẻ em vẫn dùng dạ cẩm rất tốt.
Dạ cẩm còn có tác dụng tốt trong chữa vết thương bằng giã nhỏ lá tươi dạ cẩm với ít muối đắp lên vết thương làm chóng lên da non, giúp giải độc, thanh nhiệt làm dịu đau, tiêu viêm, lợi tiểu.