Trang chủ » Danh y xưa và nay » Danh y đất việt » GS-TS Đỗ Tất Lợi – Cây đại thụ giữa rừng thảo dược

GS-TS Đỗ Tất Lợi – Cây đại thụ giữa rừng thảo dược

GS-TS Đỗ Tất Lợi sinh năm 1919, xuất thân từ một gia đình làm nghề nông ở làng Phù Xá, huyện Kim Anh, Phúc Yên, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Ngay từ nhỏ, bác đã học được ở cụ thân sinh Đỗ Văn Kiêm lòng say mê trồng trọt đủ loại cây cỏ vườn nhà. Năm lên sáu, bác bị ngã gẫy tay, được chữa khỏi nhờ cụ lang Lê Văn Sáp nổi tiếng chữa gẫy xương và nhiều bệnh khác chỉ bằng thuốc lá.

Vậy là cây cỏ ở quanh ta còn ẩn chứa nhiều điều bí mật. Cho nên khi thi vào đại học năm 1939, bác không chọn khoa Luật để ra làm quan như nhiều người mong tiến thân ngày ấy, cũng không chọn khoa Y để làm quan đốc tờ, bác chọn khoa Dược. Người chọn ngành này thật hiếm hoi! Năm bác tốt nghiệp chỉ có 6 dược sĩ cho toàn cõi Đông Dương.

Ngay khi còn là sinh viên, bác đã tìm đến cụ lang Lê Văn Sáp xin cụ cho đi thăm bệnh và đi sưu tầm cây thuốc. Nhờ đó, ngành Dược của ta may mắn có người mở đầu công việc kết hợp khoa học thực nghiệm với kinh nghiệm y học cổ truyền phương Đông. Bác là người phát ngôn sớm nhất quan niệm này trên Báo Dân Thanh ngày 31/10/1946. Vì vậy, ngay số báo sau đã có người phản bác lại, đó là nhà Đông y Lê Huy Phách. Chỉ sau đó hàng chục năm, ông này mới nhận ra sai lầm của mình, và đích thân đến xin được học, được cùng nghiên cứu với dược sĩ Đỗ Tất Lợi.

Những câu chuyện chữa bệnh kỳ lạ của y học cổ truyền thì nhiều, GS-TS Đỗ Tất Lợi có thể kể ngày này sang ngày khác mà không hết. Riêng tôi, nhớ nhất câu chuyện thú vị này:

Có một đơn vị bộ đội đóng ở Thủ Đức ngày đầu kháng chiến chống Pháp, ăn phải nấm độc, cả đơn vị bị ngộ độc, bất tỉnh. Mấy bác sĩ trong vùng đều chịu, không biết cách chữa. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đến thăm đơn vị đúng lúc ấy, ông vận dụng kiến thức học được từ Trường Đại học Y ở Paris, có lẽ một phần do thuốc men thiếu thốn vùng kháng chiến, nên ông cũng không chữa được.

Lúc đó, bà nông dân chủ nhà (chưa biết chữ) nói như đinh đóng cột: "Các chú không chữa được thì để tôi chữa cho". Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch hỏi xem bà định chữa bằng cách nào. Bà bảo: "Miễn khỏi thì thôi, các chú không cần biết!".

Bà đi ra sau nhà, nhóm bếp rang một thứ gì đó, độ 15-20 phút bà trở ra, rót từ chiếc bình tích lớn một thứ nước đổ vào miệng mỗi bệnh nhân một chén. Thật kỳ lạ! Chưa đầy 10 phút, cả đơn vị đều tỉnh lại và khoẻ khoắn như chưa từng ăn phải nấm độc.

Các bác sĩ gặng hỏi, bà chỉ mủm mỉm cười: "Tôi không nói, tôi nói ra thì các chú cho tôi… đi tù!". Rồi đơn vị chuyển đi, việc quân bận rộn, mọi người yên trí bà muốn giữ riêng cho mình bài thuốc cổ truyền. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch cũng yên trí như vậy suốt 20 năm.

Đến năm 1969, ông kể chuyện đó cho tôi nghe (lời GS Đỗ Tất Lợi). Tôi trả lời ông Thạch:

– Thưa anh, thang thuốc đó sách thuốc cổ của ta đã ghi!

– Anh thử dịch tôi xem!

"Tôi liền dịch ra và đánh máy 5 trang đặc chữ đưa ông xem. Trong đó có hàng chục thang khác nhau dùng phân người để chữa bệnh. Bà nông dân hẳn đã dùng cách này! Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch kinh ngạc liền chỉ định cho mấy dược sĩ nghiên cứu xem có chất gì trong phân có thể trị ngộ độc nấm. Hoá ra phân người thải ra potassium. Đem phân rang lên, trong tro của nó toàn potassium, pha vào nước có thể chữa được những cơn choáng như trường hợp ngộ độc nấm ở trên".

Sau đó, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch cho bào chế thứ thuốc này, bởi bộ đội thời đó hay hái nấm ăn, không tinh sẽ ăn phải nấm độc. Vì là thuốc chế từ thứ trong bụng người nên bác sĩ đặt tên cho là Nhân trung 9 (NT9). Có người muốn trêu ông thì gọi là Ngọc Thạch 9.

Câu chuyện trên thật đúng với câu danh ngôn: Thà được cứu sống một cách ngu ngốc còn hơn chết một cách thông minh.

Còn câu định nghĩa giản dị ngắn gọn này đã trở thành mục đích cả cuộc đời GS Đỗ Tất Lợi: Nghiên cứu y học cổ truyền là tìm ra những điều mà y học hiện đại chưa biết.

GS-TS Đỗ Tất Lợi có tới 120 công trình khoa học lớn nhỏ mà chỉ kể tên ra, không giải thích, đã choán hết độ dài của bài báo. Công trình đáng kể nhất, gây tiếng vang ra ngoài đất nước là bộ sách "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" dày trên 1.200 trang khổ lớn, bao gồm 750 loài cây thuốc, vị thuốc thuộc 164 họ, 77 vị thuốc động vật, 20 vị khoáng vật.

Bộ sách được tái bản nhiều lần, mỗi lần lại dày thêm những chương mới. Ví dụ tái bản lần thứ 7, bổ sung một chương về phân người, lần thứ 8 một chương về dùng nước bọt chữa bệnh… Ngoài những tên khoa học, dược tính, nơi sinh trưởng của cây thuốc… còn có hình chụp màu để độc giả bình thường có thể nhận ra không nhầm lẫn từng cây thuốc, lá thuốc.

Bàn về cây cỏ với tôi, GS nói một câu rất hay: "Hoa không chỉ quan trọng với trang thơ của các anh, với chúng tôi, nó là chứng minh thư của cây. Vì nhiều thứ cây, lá hao hao giống nhau. Nhưng đến khi có hoa là ta xác định ngay được tên gọi".

Tôi thầm nghĩ: Cây cũng như các nhà thơ vậy, họ có thể giống nhau trong đời sống, nhưng đến khi ra hoa – thơ mà cũng giống nhau nữa thì không biết gọi họ là gì?

Nhân bàn về hoa, mùa xuân đem đến cho ta bao sắc màu kỳ diệu, nhưng ta chỉ biết hưởng chúng ở vẻ đẹp bên ngoài, nếu ta còn biết được như GS Đỗ Tất Lợi, giá trị chữa bệnh cứu người của chúng: Cây kim ngân mới ra hoa màu trắng, rồi chuyển dần sang vàng, có lúc lại từng mảng trắng xen vàng (kim và ngân mà!) thành thảm hoa thật đẹp! Đó là vị thuốc mát chữa được cảm sốt, mẩn ngứa, dị ứng. Hoa mẫu đơn là một thứ thuốc có tác dụng bổ máu.

Gửi thảo luận